Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Franz II của Thánh chế La Mã”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:31.5211518
n replaced: tháng 8 18 → tháng 8 năm 18 (2), tháng 5 18 → tháng 5 năm 18 (2) using AWB
Dòng 62:
 
=== 2 Năm với 2 ngai vàng hoàng đế ===
Franz&nbsp;II tự công bố vào 11.&nbsp; tháng 8 năm 1804 làm hoàng đế của nước Áo và như vậy đã thành lập đế chế Áo.<ref>[[:s:Die Siegel der deutschen Kaiser und Könige Band 5/Beilagen#Beilage 2|''Allerhöchste Pragmatikal-Verordnung vom 11. August 1804]].'' In: Otto Posse: ''Die Siegel der Deutschen Kaiser und Könige.'' Band 5, Beilage 2, Seite 249f, auf Wikisource – Proklamation des Kaisertums Österreich</ref> Mục đích của ông là, giữ chức vị hoàng đế, ngay cả trong trường hợp đế quốc La Mã Thần thánh bị sụp đổ thì ông cũng vẫn ngang hàng với [[Napoléon Bonaparte|Napoleon&nbsp;I]], người mà vào ngày 18 &nbsp; tháng 5 năm 1804 đã tự phong làm hoàng đế cha truyền con nối của Pháp.
 
Khi mà tự phong hoàng đế Áo Franz&nbsp;II cũng đã tính tới việc, là do luật [[Reichsdeputationshauptschluss]] vào năm 1803 đã có những thay đổi trong nhóm người được bầu hoàng đế (tuyển hầu quốc Công giáo Köln và Trier đã mất quyền, những nước theo đạo Tin lành như Baden, Württemberg và Hessen được bổ nhiệm quyền này) có thể người kế vị nhà Habsburg trong trường hợp ông ta chết sẽ không được bầu làm hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh nữa.
 
Mặc dù việc tuyên bố làm hoàng đế không dựa trên một luật lệ căn bản nào ở Áo, cũng như ở đế quốc Áo-Hung, chức tước này đã được các nước khác công nhận sau một thời gian ngắn.
Hai năm sau đó – Napoleon đã thành công làm cho đế quốc La Mã Thần thánh trở thành vô nghĩa – Franz II vào ngày 6 tháng 8 năm 1806 đã từ bỏ tước vị hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh. Trong 2 năm này Franz là người duy nhất trong lịch sử thế giới mà đã giữ 2 chức hoàng đế, là Franz&nbsp;II hoàng đế đế quốc La Mã Thần thánh và Franz I hoàng đế Áo.<ref>''[[:s:Die Siegel der deutschen Kaiser und Könige Band 5/Beilagen#Beilage 3|Bey der Niederlegung der kaiserlichen Reichs-Regierung.]]'' Dekret vom 6.&nbsp;August 1806. In: Otto Posse: ''Die Siegel'' Band 5, Beilage 3, Seite 256f – Verkündung der neuen Titulatur als Kaiser von Österreich</ref>
[[hình:Tominz Francesco I.jpg|nhỏ|trái|Franz I, được vẽ bởi [[Giuseppe Tominz]], (1821)]]
[[hình:Kaiserhaus 1826.jpg|thumb|Leopold Fertbauer (1802–1875): Hoàng đế Franz I và gia đình ông, 1826; bên phải: Thái tử Ferdinand và em ông Franz Karl, cha của hoàng đế Franz Joseph I]]
Dòng 76:
Sau nhiều trận đánh không may mắn cho lắm, đưa tới việc Pháp đánh tới tận Viên, quân đội Áo dưới sự lãnh đạo của công tước Karl đã chiến thắng quân đội Napoleon tại [[trận chiến gần Aspern]] bên sông Donau, một thất bại lần đầu tiên của Napoleon, làm lung lay thanh thế bất khả chiến bại của ông ta. Napoleon phải từ bỏ dự định vượt sang bờ phía bắc của sông Donau.
 
Tuy nhiên hy vọng là có cuộc nổi dậy chung của toàn dân Đức chống lại kẻ thống trị, nhất là có sự tham gia của Phổ, đã không xảy ra. Mặt dù những nhà cấp tiến như [[Karl Freiherr vom Stein|Stein]], [[Karl August von Hardenberg|Hardenberg]], [[Gerhard von Scharnhorst|Scharnhorst]], [[August Neidhardt von Gneisenau|Gneisenau]] cũng như nhà soạn kịch [[Heinrich von Kleist]] đã thúc ép một cách mạnh mẽ ở Berlin, vua [[Friedrich Wilhelm III (Preußen)|Friedrich Wilhelm&nbsp;III]] đã từ chối. Một cuộc nổi dậy của thiếu tá [[Ferdinand von Schill]] đã thất bại vào tháng 5 năm 1809 ở Stralsund.
 
Quân đội Pháp đã thắng Áo vào ngày 5&nbsp;và 6&nbsp; tháng 7 trong [[trận chiến ở Wagram]]; chấm dứt cuộc chiến. Franz&nbsp;I hạ bệ bộ trưởng lãnh đạo [[Johann Philipp von Stadion]] và thay thế ông ta bằng nhà ngoại giao [[Klemens Wenzel Lothar von Metternich]], lúc đó mới 36 tuổi. Sau hòa ước Schönbrunn với Pháp, Metternich xếp đặt cuộc đám cưới của Napoleon với con gái của Franz [[Marie-Louise của Áo|Marie-Louise]].