Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Guam (CB-2)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Tham khảo: Unicodifying |
n replaced: vào vào → vào, tháng 2, 19 → tháng 2 năm 19 (3), tháng 3, 19 → tháng 3 năm 19, tháng 5, 19 → tháng 5 năm 19, tháng 6, 19 → tháng 6 năm 19, tháng 9, 19 → tháng 9 năm 19 (2), tháng 11, using AWB |
||
Dòng 22:
|Ship yard number=
|Ship way number=
|Ship laid down=2 tháng 2
|Ship launched=12 tháng 11
|Ship sponsor=
|Ship christened=
|Ship completed=
|Ship acquired=
|Ship commissioned=17 tháng 9
|Ship recommissioned=
|Ship decommissioned=17 tháng 2
|Ship maiden voyage=
|Ship in service=
Dòng 37:
|Ship reclassified=
|Ship refit=
|Ship struck=1 tháng 6
|Ship reinstated=
|Ship homeport=
Dòng 46:
|Ship honors=
|Ship captured=
|Ship fate=Bị bán để tháo dỡ tháng 5
|Ship status=
|Ship notes=
Dòng 95:
''Guam'' cũng là con tàu thứ hai của [[Hải quân Hoa Kỳ]] được đặt theo tên đảo [[Guam]], một lãnh thổ hải ngoại của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương.
Con tàu được hạ thủy vào ngày 12 tháng 11
==Lịch sử phục vụ==
Sau khi chạy thử máy đến [[Trinidad]], con tàu rời khỏi [[Philadelphia]] ngày 17 tháng 2
Ngày hôm sau, con tàu thực hiện chuyến đi xuất phát từ Ulithi cùng với [[Nhóm Đặc nhiệm 58.4]] (TG 58.4) do [[Chuẩn Đô đốc]] [[Arthur W. Radford]], một trong những nhóm đặc nhiệm tinh nhuệ nhất trong lịch sử hải quân, tiếp cận vùng phụ cận [[Kyushu|Kyūshū]] và [[Shikoku]], vào buổi sáng ngày 18 tháng 3. Trong nhóm này bao gồm các tàu {{USS|Yorktown|CV-10|2}}, {{USS|Intrepid|CV-11|2}}, {{USS|Independence|CVL-22|2}}, và {{USS|Langley|CVL-27|2}}; các [[Thiết giáp hạm]] {{USS|Missouri|BB-63|2}} and {{USS|Wisconsin|BB-64|2}}; các [[tàu tuần dương]] {{USS|Alaska|CB-1|2}}, {{USS|St. Louis|CL-49|2}}, {{USS|San Diego|CL-53|2}}, {{USS|Flint|CL-97|2}}; và 15 tàu khu trục làm nhiệm vụ hộ tống. Trận chiến đầu tiên của tàu xảy ra khi 5 máy bay ''[[thần phong|kamikaze]]'' tấn công các hàng không mẫu hạm. Các súng trên tàu được nhắm trực tiếp vào các phi cơ. Trong cuộc chạm trán này, hàng không mẫu hạm {{USS|Enterprise|CV-6|2}} và ''Intrepid'', đều bị bắn phá nhưng vẫn có thể tiếp tục hoạt động. Tàu ''Enterprise'' bị một trái bom đánh trúng gần tháp chỉ huy; trong khi một máy bay kamikaze đã lao vào sàn bay ở phía đuôi tàu ''Intrepid''' rồi rơi xuống biển sau khi bay vụt qua các thủy thủ. Cuộc tấn công kéo dài cho đến chiều và kết quả là nhóm tàu đã hạ được 4 máy bay Nhật trong đó có một chiếc do con tàu Guam bắn. Chiều hôm sau, tàu ''Guam'' được gửi đi hộ tống tàu {{USS|Franklin|CV-13|2}} quay trở về từ vùng chiến sự. Nhiệm vụ này kết thúc vào ngày 22 tháng 3.
Sai khi được bổ sung nhiên liệu, ''Guam'' tái gia nhập Nhóm Đặc nhiệm 58.4 và khởi hành đến khu vực chiến sự trong vùng phụ cận [[Okinawa Gunto]], [[Nhật Bản]]. Đêm ngày 27 tháng 3 đến 28 tháng 3
Sau khi sửa chữa và bổ sung tại [[Ulithi]], Guam một lần nữa khởi hành đến vùng biển phía đông của Okinawa, là một đơn vị của Đô đốc [[William F. Halsey]] của Hạm đội 3, do đó đổi tên thành Nhóm Đặc Nhiệm 38,4. Ở đây Guam tiếp tục hỗ trợ các tàu sân bay tung ra các máy bay tiêm kích càn quét qua sân bay Kyūshū. Ngày 9 tháng 6, Guam, Alaska, và năm tàu khu trục tiến hành một cuộc bắn phá trong vòng 90-phút tại [[Okino Daito]]. Tiến trình sau đó được đặt tại [[Vịnh Leyte]], đến [[Vịnh San Pedro]] vào ngày 13 tháng 6 sau gần 3 tháng hoạt động liên tục hỗ trợ cho [[chiến dịch Okinawa]].
Guam bây giờ có một nhiệm vụ mới là tàu chỉ huy của lực lượng Đặc Nhiệm tàu tuần dương 95, bao gồm tuần dương hạm lớn Guam và Alaska, bốn tuần dương hạm hạng nhẹ, và chín khu trục hạm. Lực lượng này đi
Vài ngày sau, Guam trở thành tàu chỉ huy thuộc [[lực lượng Bắc Trung Quốc]] của Chuẩn Đô đốc Low và trong phạm vi biển Hoàng Hải nhằm phô trương hải quân Mỹ có thể trước khi cập bến cảng lớn [[Thanh Đảo]], [[cảng Arthur]], và [[Dairen]]. Sau đó Guam tới [[Jinsen, Hàn Quốc]], vào ngày 8 tháng 9 năm 1945 để đảm bảo rằng chiếm đóng và giải phóng đất nước. Guam rời khỏi Jinsen vào ngày 14 tháng 11 và đến [[San Francisco]] ngày 3 tháng 12 đổ bộ quân lính và đồng thời giải tán quân đội. Rời khỏi San Francisco ngày 5 tháng 12 năm 1945, Guam đến [[Bayonne]], [[New Jersey]], 17 tháng 12. Ở lại đó và ngừng hoạt động vào ngày 17 tháng 2 năm 1947; Guam bỏ neo với Tập đoàn New York, [[hạm đội dự trữ Đại Tây Dương]] tới ngày 1 tháng 6 năm 1960 khi tên tàu được gạch tên khỏi Danh sách Hải quân. Tàu được bán làm phế liệu vào ngày 24 tháng 5 năm 1961 cho Công ty Kim loại Boston, [[Baltimore]], [[Maryland]].
|