Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Ten-Go”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Ngày 7 tháng 4: replaced: lí]] → lý]] using AWB
n replaced: tháng 4]], 19 → tháng 4 năm 19, tháng 8, 19 → tháng 8 năm [[19 using AWB
Dòng 42:
* Hải đội 21 khu trục hạm: Đại tá Hisao Kotako, bao gồm các khu trục hạm ''[[khu trục hạm Asashimo|Asashimo]]'' (Trung tá Yoshiro Sugihara), ''[[kasumi (tàu khu trục Nhật)|Kasumi]]'' (Trung tá Hiroo Yamana), ''[[hatsushimo (tàu khu trục Nhật)|Hatsushimo]]'' (Trung tá Masazo Sato)
* Hải đội 41 khu trục hạm: Đại tá Masayoshi Yoshida, bao gồm các khu trục hạm ''[[khu trục hạm Fuyutsuki|Fuyutsuki]]'' (Trung tá Hidechika Sakuma), ''[[khu trục hạm Suzutsuki|Suzutsuki]]'' (Trung tá Shigetaka Amano).
[[Tập tin:YamatoTenGoOfficers.jpg|nhỏ|300px|Ảnh các sĩ quan chỉ huy trên soái hạm ''Yamato'' vào ngày [[5 tháng 4]], năm [[1945]], 2 ngày trước cuộc hành quân]]
Vào ngày [[5 tháng 4]], [[Phó Đô đốc]] [[Ryunoskue Kusaka]], tham mưu trưởng hạm đội Liên hợp đã từ [[Kanoya, Kagoshima|Kanoya]] đến [[Tokuyama]] để họp với các sĩ quan hàng đầu của Đệ nhị hạm đội trên soái hạm ''Yamato'' cũng như ra tín hiệu bắt đầu cuộc hành quân Ten-Go. Cùng lúc đó, cũng diễn ra một cuộc họp giữa giữa các chỉ huy trưởng hải đội và hạm trưởng trên tuần dương hạm ''Yahagi''. Chuẩn Đô đốc Komura đã trình bày kế hoạch mà Đô đốc Kusaka mang đến, theo đó Bộ tư lệnh tối cao muốn Đệ nhị hạm đội đến [[Okinawa]] mà không có [[máy bay|phi cơ]] yểm trợ và [[nhiên liệu]] chỉ vừa đủ cho lượt đi.<ref name="Yamamoto220">{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=220}}</ref> Do không đồng ý với kế hoạch đó, Komura đã yêu cầu Itō và Kusaka tạm ngưng phiên họp trên soái hạm ''Yamato'' để trở về ''Yahagi'' hội ý với các chỉ huy trưởng và hạm trưởng. Các chỉ huy trưởng Shintani, Kodaki ngay lập tức ra ý kiến phản đối kế hoạch tự sát này, còn các [[Đại tá]] Tameichi Hara, Yoshida và Sugihara đề nghị thi hành các sứ mạng đơn độc hơn là đưa toàn bộ hạm đội đến chỗ chết tại Okinawa.<ref>{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=222}}</ref>
 
Dòng 109:
Cuộc hành quân Ten-Go là trận đánh cuối cùng của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]. Kết quả là Đệ nhị hạm đội ra khơi với 1 siêu [[thiết giáp hạm]], 1 [[tàu tuần dương|tuần dương hạm]] và 8 [[tàu khu trục|khu trục hạm]] sau 2 giờ bị tấn công bởi 386 [[máy bay]] xuất phát từ các [[tàu sân bay|hàng không mẫu hạm]] Mỹ, chỉ còn 4 khu trục hạm tồn tại. Trong khi đó, phía Mỹ chỉ có 12 [[phi công]] thiệt mạng và 10 máy bay bị bắn rơi do hỏa lực phòng không của các chiến hạm Nhật, một số phi hành đoàn được tàu ngầm và thủy phi cơ giải cứu. 2.449 người của Yamato, 446 người của Yahagi và 721 người của các khu trục hạm thiệt mạng<ref name="Yamamoto262"/> (con số thiệt mạng của người Nhật trong trận này nằm từ 3.700 đến 4.250 theo nhiều tài liệu khác nhau). Việc đánh chìm chiếc ''Yamato'' được xem là một chiến thắng lớn của Mỹ, và biên tập viên quân sự [[Hanson W. Baldwin]] của tờ ''[[The New York Times|New York Times]]'' đã viết rằng: "Sự kiện đánh chìm chiếc thiết giáp hạm mới ''Yamato'' của Nhật... là một bằng chứng... nếu thật sự cần đến, là đã đánh đúng vào điểm yếu chết người của người Nhật trên bầu trời và trên mặt biển".<ref>{{chú thích báo|title = Okinawa's Fate Sealed: Sinking of Yamato Shows Japan's Fatal Air and Sea Weakness | first = Hanson | last = Baldwin | work = The New York Times | date = 9 tháng 4 năm 1945 | page = 12}}</ref>
 
Các khu trục hạm Nhật trở về sau cuộc hành quân này chỉ còn tham gia chiến đấu rất ít trong thời gian còn lại của cuộc chiến. ''Suzutsuki'' đã không bao giờ được sửa chữa. ''Fuyuzuki'' sau khi được sửa chữa lại bị trúng [[thủy lôi]] của Mỹ tại [[Moji]] vào ngày [[20 tháng 8]], năm [[1945]] và nó không còn được sửa chữa lần nữa. ''Yukikaze'' sống sót qua cuộc chiến với tình trạng hầu như không bị hư hại. ''Hatsushimo'' bị lãnh một trái thủy lôi vào ngày [[30 tháng 7]] gần [[Maizuru]], nằm trong biển Nhật Bản và nó trở thành chiến hạm thứ 129, cũng là khu trục hạm cuối cùng của Nhật chìm trong Chiến tranh thế giới thứ hai.<ref>{{harvnb|Tameichi Hara Yamamoto|1974|p=231}}</ref>
 
[[Okinawa]] được quân Đồng Minh tuyên bố an toàn vào ngày [[21 tháng 6]] năm 1945,<ref>{{harvnb|Richard H. Minear |1999|p=xiv}}</ref> sau khi cả hai phía Nhật và Mỹ đều chịu những tổn thất nặng nề (hơn 12.000 lính Mỹ và 100.000 lính Nhật thiệt mạng). Sau cùng, vào ngày [[15 tháng 8]] năm 1945, [[Đế quốc Nhật Bản]] đã chính thức đầu hàng [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] sau sự kiện [[Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki|Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki]]. Những chiến thuật tự sát kiểu như cuộc hành quân Ten-Go, Kamikaze và sự chống trả kiên cường của người Nhật qua [[trận Okinawa]] là nguyên nhân buộc Mỹ phải sử dụng bom nguyên tử để kết thúc nhanh cuộc chiến.<ref>{{harvnb|Feifer|2001|p=410-430}}</ref>