Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cà phê chè”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tán cây thường nhỏ, nhỏ hơn cà phê robusta nhiều. tại dak lak
Dòng 19:
Đây là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Cà phê arabica còn được gọi là ''Brazilian Milds'' nếu nó đến từ [[Brasil]], gọi là ''Colombian Milds'' nếu đến từ [[Colombia]], và gọi là ''Other Milds'' nếu đến từ các nước khác. Qua đó có thể thấy Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được đánh giá cao nhất. Các nước xuất khẩu khác gồm có [[Ethiopia]], [[México]], [[Guatemala]], [[Honduras]], [[Peru]], [[Ấn Độ]].
 
Cây cà phê arabica ưa sống ở vùng núi cao. Người ta thường trồng nó ở độ cao từ 1000-1500 [[m]]. Cây có tán lớnnhỏ, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4–6 m, nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 15 m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt cà phê.
 
Cà phê chè sau khi trồng khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho thu hoạch. Thường thì cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được nữa. Thực tế nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm. Cây cà phê arabica ưa thích nhiệt độ từ 16-25[[Độ Celsius|°C]], [[Mưa|lượng mưa]] khoảng trên 1000 mm.