Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Jarvis (DD-799)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 81:
=== Thế Chiến II ===
Sau khi hoàn tất chạy thử máy dọc theo bờ biển [[California]], ''Jarvis'' khởi hành từ Seattle vào ngày [[25 tháng 8]] năm [[1944]] trong thành phần hộ tống cho [[thiết giáp hạm]] {{USS|South Dakota|BB-57|3}} để đi [[Trân Châu Cảng]]. Sau khi đến nơi vào ngày [[31 tháng 8]], nó lại lên đường vào ngày [[3 tháng 9]], di chuyển độc lập đến [[Adak, Alaska|Adak]], [[Alaska]], nơi nó gia nhập [[Lực lượng Bắc Thái Bình Dương]], và tham gia các hoạt động tại khu vực [[quần đảo Kuril]]. Hoạt động từ Adak và [[đảo Attu|Attu]], chiếc tàu khu trục phải chống chọi thời tiết lạnh khắc nghiệt và bão tố kéo dài, tiến hành tám đợt bắn phá xuống căn cứ đối phương và tàu bè từ [[Paramushiru]] đến [[Matsuwa]].
 
Quay trở về Adak sau đợt bắn phá cuối cùng vào ngày [[15 tháng 8]], ngày [[Nhật Bản đầu hàng]] kết thúc cuộc xung đột, ''Jarvis'' lên đường đi [[Aomori, Aomori|Aomori]], [[Honshū]], nơi nó hỗ trợ các hoạt động chiếm đóng. Đi đến Aomori vào ngày [[8 tháng 9]], nó tuần tra trong biển Nhật Bản, hỗ trợ các cuộc đổ bộ chiếm đóng và phá hủy các cơ sở quân sự tại Honshū và [[Hokkaidō]]. Nó rời [[Yokosuka]], Honshū vào ngày [[19 tháng 11]] để quay trở về Hoa Kỳ, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[29 tháng 11]], nơi nó tham gia [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch Magic Carpet]] nhằm hồi hương những cựu chiến binh ở nước ngoài. Con tàu khởi hành vào ngày [[1 tháng 12]], quay về vùng bờ Đông ngang qua [[San Diego]] và [[kênh đào Panama]], về đến [[Xưởng hải quân Charleston]], [[Charleston, South Carolina]] vào ngày [[22 tháng 12]]. ''Jarvis'' được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương vào ngày [[11 tháng 4]], [[1946]] và được cho xuất biên chế vào ngày [[29 tháng 6]], [[1946]].
 
=== 1951 - 1960 ===
Sau khi [[Chiến tranh Triều Tiên]] nổ ra tại Viễn Đông với quy mô và cường độ ngày càng mở rộng, ''Jarvis'' được cho nhập biên chế trở lại vào ngày [[8 tháng 2]], [[1951]] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân E. F. Rye. Nó hoạt động tại vùng biển [[Đại Tây Dương]], ngoài khơi Charleston và [[Norfolk, Virginia]] trong hơn một năm trước khi khởi hành từ Norfolk vào ngày [[15 tháng 5]], [[1952]] để được bố trí sang [[Triều Tiên]]. Đi ngang qua kênh đào Panama, vùng bờ Tây và Nhật Bản, nó đi đến ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Triều Tiên vào ngày [[23 tháng 6]], làm nhiệm vụ phong tỏa và tuần tra can thiệp, hoạt động trong khu vực trải rộng từ [[Songjin]] và [[Chongjin]], và hoạt động phối hợp cùng [[Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Thất hạm đội]] cho đến khi nó quay trở về Yokosuka vào ngày [[18 tháng 8]]. Nó sau đó được điều sang tuần tra tại [[eo biển Đài Loan]] từ ngày [[26 tháng 9]] đến ngày [[10 tháng 10]], và sau khi hoàn thành lượt phục vụ, nó lên đường cho hành trình quay trở về nhà. Chiếc tàu khu trục rời [[vịnh Subic]], [[Philippines]] vào ngày [[18 tháng 10]], đi ngang qua [[Sri Lanka|Ceylon]], [[kênh đào Suez]] và [[Gibraltar]], hoàn tất chuyến vòng quanh thế giới khi về đến Norfolk vào ngày [[12 tháng 12]].
[[Tập tin:USS Jarvis (DD-799) underway c1958.jpg|thumb|left|''Jarvis'' trên đường đi vào cuối những năm [[thập niên 1950|1950]].]]
''Jarvis'' tiếp nối các hoạt động thường lệ cùng [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]]. Vào ngày [[4 tháng 5]], [[1954]], nó được bố trí sang vùng biển [[Địa Trung Hải]], đi đến [[Naples]], [[Ý]] vào ngày [[18 tháng 5]]. Con tàu hoạt động phối hợp cùng [[Đệ Lục hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Lục hạm đội]] trong vai trò răn đe sự bành trướng của [[Cộng sản]] tại [[Trung Đông]] trước khi quay trở về Norfolk vào ngày [[9 tháng 7]].
 
== Phần thưởng ==