Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đinh Tiên Hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
One Man's Terrorist is Another Man's Freedom Fighter!
Đã lùi lại sửa đổi 26486895 của KevinLy0623 (thảo luận)
Dòng 1:
{{Bài cùng tên|Đinh Tiên Hoàng (định hướng)}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
|tên = Đinh Tiên Hoàng<br>丁先皇
|native name = 丁先皇
|tước vị = Hoàng đế [[Đại Cồ Việt]]
|thêmtước vị = Vua Việt Nam
|thêm = vietnam
|hình = VuaDinhTienHoang.jpg
|cỡ hình = 200px
|ghi chú hình = Tượng Đinh Tiên Hoàng ở [[Hoa Lư]]
|chức vị = Hoàng đế [[nhàĐại ĐinhCồ Việt]]
|tại vị = [[968]] - [[979]]
|kiểu tại vị = Trị vì
|tiền nhiệm = '''Sáng lập triều đại'''
|kế nhiệm = <font color="blue">[[Đinh Phế Đế]]</font>
|tên đầy đủ = Đinh Bộ Lĩnh (丁部領)<br>Đinh Hoàng (丁璜)<br>Đinh Hoàn (丁桓 hoặc 丁環)
|kiểu tên đầy đủ = Tên húy
|thông tin con cái = ẩn
Hàng 18 ⟶ 19:
|hoàng tộc = [[Nhà Đinh]]
|kiểu hoàng tộc = Triều đại
|niên hiệu = Thái Bình (太平)
|thụy hiệu = Tiên Hoàng Đế (先皇帝)
|thông tin phối ngẫu = ẩn
|phối ngẫu = Đan Gia<br>Trinh Minh<br>Kiểu Quốc<br>Cồ Quốc<br>Ca Ông
Dòng 30:
}}
 
'''Đinh Tiên Hoàng''' ([[chữ Hán]]: {{hn|ch=丁先皇}}; [[22 tháng 3]] năm [[924]] - [[tháng 10]] năm [[979]]), tên thậthúy là '''Đinh Bộ Lĩnh''' (丁部領) hoặc '''Đinh Hoàng'''sách (丁璜) hoặcgọi '''Đinh Hoàn''' (丁桓 hoặc 丁環) (xem mục [[#Tên gọi|Tên gọi]] bên dưới), là vị [[Vua Việt Nam|hoàng đế]] sáng lập [[triều đại]] [[nhà Đinh]], nước [[Đại Cồ Việt]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
Ông là người có công đánh dẹp [[loạn 12 sứ quân]], thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của [[Việt Nam]] sau 1000 nămthời [[Bắc thuộc]]. [[Đại Cồ Việt]] là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.<ref name="ReferenceB">''Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh'', NXBNhà xuất bản Quân đội nhân dân trang 27</ref> Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của [[Việt Nam]], từ [[Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)|họ Khúc]] chỉ xưng làm [[Tiết độ sứ]], tới [[Ngô Quyền]] xưng [[Vươngvương]] và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc<ref name="ReferenceC">bao gồm [[Triệu Vũ Đế]], [[Triệu Văn Đế]] (nếu công nhận tính chính thống của [[nhà Triệu]]), [[Lý Nam Đế]], [[Mai Hắc Đế]]</ref> rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời [[nhà Đinh]], người cầm quyền [[Việt Nam]] mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – [[Nhà Tiền|Tiền Lê]] [[Nhà|Lý]] [[Nhà Trần|Trần]] và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng [[Hoàng đế]] như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở [[Việt Nam]]<ref name="m.kienthuc.net.vn">[http://m.kienthuc.net.vn/kim-chi-da-lua/201009/Nuoc-Viet-co-nen-quan-che-doc-lap-tu-khi-nao-399764/ Nước Việt có nền quan chế độc lập từ khi nào?], Báo Kiến Thức, ngày 15/09/10</ref><ref name="vietnamplus.vn">[http://www.vietnamplus.vn/Home/Ruoc-lua-thieng-tu-co-do-Hoa-Lu-ve-Thang-Long/20109/58803.vnplus Rước lửa thiêng từ cố đô Hoa Lư về Thăng Long], Vũ Văn Đạt, Báo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 02/09/2010</ref><ref name="Phố Đinh Tiên Hoàng">[http://www.hoankiem.gov.vn/city_info/anzeige/news/aktuelles/show.cfm?region_id=70&keyword=&id=1694 Phố Đinh Tiên Hoàng], Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm.</ref>, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
 
==XuấtTên thângọi==
SáchHầu hết các chính sử như: An [[Nam Hảichí dịlược; nhân]] của"Việt [[Phansử Kếlược", Bính]]"Đại viếtViệt rằngsử ký toàn thư", Việt sử tiêu án, đều viết Đinh Tiên Hoàng vốn họ Đinh tên Bộ HoàngLĩnh (丁部領)<ref name=".越史略/卷上"/><ref [[Việt gian]]name="大越史記全書/本紀卷之一"/>. [[Trần Trọng Kim]] trong sách [[Việt Nam sử lược]] cho biết "có sách" nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Hoàn (丁桓), "Bộ Lĩnh" là tước quan [[Trần Lãm]] phong cho Đinh Hoàn nhưng do [[Khâm định Việt sử Thôngthông giám cương mục]] và các sách khác đều nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Bộ Lĩnh nên ông không dùng tên Đinh Hoàn để gọi Đinh Tiên Hoàng. Trần Trọng Kim không nói rõ "sách" mà ông nhắc đến là sách gì<ref>Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Thời Đại, năm 2010. Trang 89.</ref>.
 
Tên gọi "Đinh Tiên Hoàng" có nghĩa là vị vua đã khuất mang họ Đinh, đây không phải là tên thật hay [[thuỵ hiệu]], [[miếu hiệu]] của Đinh Tiên Hoàng. Trong [[Việt sử lược]] Đinh Tiên Hoàng được gọi là "Đinh Tiên Vương" (丁先王)", "Tiên Vương" (先王)"<ref name="越史略/卷上">[https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E7%95%A5/%E5%8D%B7%E4%B8%8A 越史略/卷上], 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>, trong [[Đại Việt sử ký toàn thư]] ông được gọi là "Tiên Hoàng Đế" (先皇帝)", "Tiên Hoàng" (先皇)"<ref name="大越史記全書/本紀卷之一">[https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A4%A7%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E8%A8%98%E5%85%A8%E6%9B%B8/%E6%9C%AC%E7%B4%80%E5%8D%B7%E4%B9%8B%E4%B8%80 大越史記全書/本紀卷之一], 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>. "Tiên Vương", "Tiên Hoàng", "Tiên Hoàng Đế" đều là tên gọi tôn kính dùng để chỉ một vị vua đã khuất<ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=1&recNo=83&op=f&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref><ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD%A4%FD&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=1&recNo=83&op=&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref><ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD%AC%D3&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=2&recNo=0&op=&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>. Một nhân vật lịch sử Việt Nam khác cũng có cái tên chắp ghép theo kiểu này là [[Trần Hưng Đạo]] (ghép từ họ Trần của ông với Hưng Đạo vương, là tước vị của ông).
===Tên gọi===
Sách An Nam chí lược; [[Đại Việt sử lược]] hoặc [[Đại Việt sử ký toàn thư]], Việt sử tiêu án, đều viết Đinh Tiên Hoàng vốn họ Đinh tên Bộ Lĩnh (部領)<ref name="越史略/卷上"/><ref name="大越史記全書/本紀卷之一"/>.
 
===Tuổi thơ===
Sách [[Nam Hải dị nhân]] của [[Phan Kế Bính]] viết rằng "Tiên Hoàng họ Đinh tên là Hoàng (璜)". [[Việt gian]] [[Trần Trọng Kim]] trong sách [[Việt Nam sử lược]] cho biết "có sách" nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Hoàn (丁桓), "Bộ Lĩnh" là tước quan [[Trần Lãm]] phong cho Đinh Hoàn nhưng do [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]] và các sách khác đều nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Bộ Lĩnh nên ông không dùng tên Đinh Hoàn để gọi Đinh Tiên Hoàng. Trần Trọng Kim không nói rõ "sách" mà ông nhắc đến là sách gì<ref>Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Thời Đại, năm 2010. Trang 89.</ref>.
 
Tên gọi "Đinh Tiên Hoàng" có nghĩa là vị vua đã khuất mang họ Đinh, đây không phải là tên thật hay [[thuỵ hiệu]], [[miếu hiệu]] của Đinh Tiên Hoàng. Trong Việt sử lược Đinh Tiên Hoàng được gọi là "Đinh Tiên Vương (丁先王)", "Tiên Vương (先王)"<ref name="越史略/卷上">[https://zh.wikisource.org/wiki/%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E7%95%A5/%E5%8D%B7%E4%B8%8A 越史略/卷上], 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>, trong Đại Việt sử ký toàn thư ông được gọi là "Tiên Hoàng Đế (先皇帝)", "Tiên Hoàng (先皇)"<ref name="大越史記全書/本紀卷之一">[https://zh.wikisource.org/wiki/%E5%A4%A7%E8%B6%8A%E5%8F%B2%E8%A8%98%E5%85%A8%E6%9B%B8/%E6%9C%AC%E7%B4%80%E5%8D%B7%E4%B9%8B%E4%B8%80 大越史記全書/本紀卷之一], 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>. "Tiên Vương", "Tiên Hoàng", "Tiên Hoàng Đế" đều là tên gọi tôn kính dùng để chỉ một vị vua đã khuất<ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=1&recNo=83&op=f&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref><ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD%A4%FD&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=1&recNo=83&op=&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref><ref>http://dict.revised.moe.edu.tw/cgi-bin/newDict/dict.sh?cond=%A5%FD%AC%D3&pieceLen=50&fld=1&cat=&ukey=1511047860&serial=2&recNo=0&op=&imgFont=1, 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015.</ref>. Một nhân vật lịch sử Việt Nam khác cũng có cái tên chắp ghép theo kiểu này là [[Trần Hưng Đạo]] (ghép từ họ Trần của ông với Hưng Đạo vương, là tước vị của ông).
 
===Tuổi thơ===
[[Tập tin:Colaudinhbolinh.JPG|nhỏ|220px|Tượng đài cờ lau Đinh Bộ Lĩnh ở [[Thành phố Hồ Chí Minh]]]]
Đinh Bộ Lĩnh sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (tức [[22 tháng 3]] năm [[924]]) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã [[Gia Phương, Gia Viễn|Gia Phương]], [[Gia Viễn]], [[Ninh Bình]])<ref>[http://www.ninhbinhtourism.com.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=44 Triết Gia Đinh Tiên Hoàng (924 – 979)], Trên trang sở Văn hóa Thể thao Du lịch Ninh Bình, ngày 07.06.2007</ref><ref>Theo các sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư thì cho rằng ông là người động Hoa Lư, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tuy nhiên hiện nay người ta phủ nhận giả thiết này và các địa danh trên rất gần nhau, đều thuộc huyện Gia Viễn, xem bài động Hoa Lư</ref>. Cha của ông là [[Đinh Công Trứ]], nha tướng của [[Dương Đình Nghệ]], giữ chức thứ sử [[Hoan Châu]]. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại (Gia Thủy, [[Nho Quan]]) ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự ở quê nội gần đó. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn [[trâu]] lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có [[Đinh Điền]], [[Nguyễn Bặc]], [[Lưu Cơ]] và [[Trịnh Tú]], những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
Hàng 49 ⟶ 45:
Theo sách An Nam chí lược: ''Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha-tướng của Dương Đình Nghệ. Cuối thời Ngũ Đại, Dương Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy CôngTrứ quyền Thứ Sử Hoan-Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiện, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.''<ref>An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giả:Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961; bản điện tử, trang 97</ref>
 
Theo sách Việt sử tiêu án: Vua Đinh, tên Bộ Lĩnh, người làng Đại Hoàng, động Hoa Lư. Thân phụ Vua là Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, cai trị Hoan Châu, mẹ là họ Đàm, nằm mộng thấy có một người lớn tay cầm cái ấn vua đến xin làm con, bèn có mang mà sinh ra Vua, được ít lâu thì thân phụ dắt vào ở trong động, chơi với trẻ chăn trâu, lũ trẻ tôn làm đàn anh. Mỗi khi chơi đùa, giao tay nhau cho Vua ngồi lên, khiêng đi làm xe, lấy bông lao làm cờ, dàn ra hai bên, rước đi làm như nghị vệ nhà vua. Trong nhà nuôi được con lợn, thừa lúc mẹ đi vắng, Vua mổ lợn khao bọn trẻ rồi di cư đến Đào Úc Sách. Bà mẹ sợ, mang chuyện ấy nói với chú Đinh Dự, Dự cầm dao đi tìm, đuổi đến bờ sông, Vua chạy sa vào bùn lầy, thấy có con rồng vàng, đỡ hai bên Vua sang qua sông. Ông chú sợ bỏ về, Vua bèn theo bọn ngư hộ làm nghề đánh cá, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ có tia sáng tròn, hỏi cớ sao, và nói rằng: "Anh này ngày sau cao quý không thể nói được". Sau đến nương nhờ Trần Minh Công, làm chỉ huy của quân Trần đánh đâu được đấy, gọi là Vạn Thắng Vương. Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng đế.<ref>Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sỹ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứucứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu; Nhà xuất bản: Văn Sử 1991; bản điện tử, trang 34</ref>
 
Theo [[Đại Việt sửSử toànToàn thưThư]] chép::"''[[Vua]] mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, [[vua]] thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng [[vua]], cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của [[vua]] giữ sách Bông chống đánh với [[vua]]. Bấy giờ, [[vua]] còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan,<ref>Địa danh này hiện thuộc thôn Đàm Xá, Gia Tiến, Gia Viễn. con đường Đinh Bộ Lĩnh chạy trốn từ Gia Phương đến Gia Tiến hiện vẫn được gọi là đường Vua Đinh. Tương truyền, khi người chú đuổi tới bến sông thì gặp người bạn của Đinh Công Trứ (cha ruột Đinh Bộ Lĩnh) đã quỳ sẵn ở đó và nói với Đinh Dự là đã có rồng chở Bộ Lĩnh sang sông. Ông làm như vậy để tạo "uy" cho Đinh Bộ Lĩnh khiến người chú cũng phải lạy và quay về. Sông đó là sông Hoàng Long hiện giờ</ref> cầu gãy, [[vua]] rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con [[rồng]] vàng hộ vệ [[vua]], nên sợ mà lui. [[Vua]] thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là [[Vạn Thắng Vương]]''."
 
==Thống nhất đất nước==
Hàng 57 ⟶ 53:
 
===Cát cứ chống nhà Ngô===
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Đinh Liễn đến nương tựa. Minh Công thấy Đinh Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô lạ thường, lại có khí lượng, mới nuôi làm con, ơn yêu đãi ngày càng hậu, nhân đó giao cho coi quân, sai đi đánh các hùng trưởng khác, đều thắng được cả. <ref>Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 57</ref>
 
Theo sách Việt Nam sử lược: Do không hòa với chú nên Đinh cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở Bố-hải khẩu (Phủ Kiến-xương, Thái-bình).<ref>Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim; Bộ giáo dục trung tâm học liệu xuất bản, bản điện tử, trang 35</ref>
 
Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về [[Hoa Lư]], chiêu mộ binh lính, chống [[nhà Ngô]] và các sứ quân khác .Dưới trướng ông những hào kiệt của Giao Châu đều có mặt (Giao Châu thất hùng gồm: Đinh Bộ Lĩnh, [[Đinh Liễn]], [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]], [[Đinh Điền]], [[Nguyễn Bặc]], [[Phạm Hạp]], [[Phạm Cự Lạng]]).<ref>Việt sử toàn thư, Phạm Văn Sơn, trang 116</ref><ref>Về thời điểm Đinh Bộ Lĩnh gia nhập với Trần Lãm trước năm 1951 chúng tôi theo những gì chép trong Việt Nam sử lược của soạn giả Trần Trọng Kim</ref>
 
Năm 951, con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Văn truất bỏ Dương Tam Kha, tự lập làm vương, xưng là Nam Sách vương, rước anh là Ngô Xương Ngập trở về lập làm Thiên Sách vương. Đinh Bộ Lĩnh lúc ấy cậy có khe núi Hoa Lư hiểm trở, không chịu làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Đinh Liễn đến, hai vương trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh.<ref>Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 56</ref>
Hàng 88 ⟶ 84:
 
===Dẹp các sứ quân===
Mở đầu sự nghiệp dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại lực lượng do [[Lữ Xử Bình]] và [[Kiều Công Hãn]] ở triều đình [[Cổ Loa]], là những quyền thần nhà Ngô trực tiếp tranh giành ngôi vua <ref>''Cố đô Hoa Lư'', NXBNhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2008</ref>.
 
Sứ quân [[Đỗ Cảnh Thạc]] là một sứ quân mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả ''Độc nhĩ đại vương'' ở [[Thanh Oai]], [[Đỗ Cảnh Thạc]] là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ [[Đỗ Cảnh Thạc]] đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành luỹ, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. [[Đỗ Cảnh Thạc]] bị trúng tên chết.
 
Sứ quân [[Nguyễn Siêu]] chiếm Tây Phù Liệt (Thanh Trì, [[Hà Nội]]). Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh. [[Nguyễn Siêu]] đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp luỹ để phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là [[Nguyễn Bồ]], Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. [[Nguyễn Siêu]] chia một nửa quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông tìm viện binh của các sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan. [[Nguyễn Siêu]] tử trận.<ref>Nguyễn Danh Phiệt, sách đã dẫn, tr 196</ref>
 
Sứ quân [[Kiều Công Hãn]] đóng tại [[Phong Châu]], chiếm 3 châu Thái Châu, Hào Châu và Phong Châu xưng là Kiều Tam Chế. Trước thế mạnh của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, [[Kiều Công Hãn]] thua chạy đem quân xuống phía nam với ý định hợp sức với [[Ngô Xương Xí]]. Khi đến thôn Vạn Diệp (Xã Nam Phong, [[Nam Trực]], [[Nam Định]]) bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì mất.<ref>Ngày nay cứ đến 10-3 âm lịch, nhân dân làng Gin lại đánh cá để tế, tưởng nhớ Kiều Công Hãn, trong khi nhân dân An Lá (Đều ở Nam Trực, Nam Định) lại gói bánh để tế, tưởng nhớ chiến công của Nguyễn Tấn, nên dân gian có câu: "làng Gin đánh cá, làng Lá gói bánh"</ref>
 
[[Nguyễn Thủ Tiệp]] sau khi chiếm toàn bộ châu Vũ Ninh tự xưng là Vũ Ninh Vương. Khi giao tranh thì [[Nguyễn Thủ Tiệp]] ở Tiên Du cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải (Cửa Cồn, [[Quỳnh Lưu]], [[Nghệ An]]) đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.<ref>Theo thần tích làng Tiên Xá, nơi có di tích thờ Nguyễn Thủ Tiệp</ref>
 
[[Nguyễn Khoan]] khi lớn mạnh xưng là Quảng Trí Quân, tức vị Vua vĩ đại. Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, [[Nguyễn Khoan]] chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của sứ quân này tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng Đậu.
 
Sau khi Đinh Bộ Lĩnh tấn công thành [[Hồi Hồ]], tướng quân [[Kiều Thuận]] chống không nổi đành vượt sông Hồng chạy sang thành Mè kết hợp với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm thành Mè, Kiều Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Yên Bái trốn thoát. Ngày nay, thị xã Phú Thọ còn dấu tích thành Mè. Làng Trù Mật xã Văn Lung thị xã Phú Thọ có đền thờ Ma Xuân Trường và [[Kiều Thuận]].<ref>[http://www.vanhocnghethuatphutho.org.vn/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1672 TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN GIAN ĐẤT TỔ (Nguyễn Hữu Nhàn)], Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuậtthuật Tỉnh Phú Thọ</ref>
 
[[Lý Khuê]] chiếm giữ vùng đất Luy Lâu bờ nam sông Đuống, đặt căn cứ ở Siêu Loại (Thuận Thành). Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, [[Bắc Ninh]]) thì sứ quân [[Lý Khuê]] đánh nhau với Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).
 
Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng Bắc Ninh, vốn do các sứ quân [[Nguyễn Thủ Tiệp]] và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chuyển quân về Siêu Loại, cho [[Đinh Liễn]] và [[Nguyễn Bặc]] đem ba ngàn quân tiến đánh quân Lã Đường. [[Lã Đường]] chủ trương tản quân, đóng giữ chỗ hiểm yếu rậm rạp vùng bùn lầy. Hễ quân [[Hoa Lư]] đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, diệt một vài lính, rồi lại bỏ chạy. [[Nguyễn Bặc]] bày kế cho quân [[Hoa Lư]] tập trung, tập kích quân lương tiếp vận của quân [[Lã Đường]]. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên ngoài của quân Lã Đường bị tiêu diệt hoàn toàn, [[Đinh Liễn]], [[Nguyễn Bặc]] đánh sâu vào trung tâm, bắt được [[Lã Đường]], chém chết, thu phục hoàn toàn đất Tế Giang.
 
===Chiêu hàng===
Để thực hiện nhiệm vụ dẹp loạn và thống nhất đất nước, [[Đinh Bộ Lĩnh]] đã khôn khéo vận dụng kế sách chính trị kết hợp với quân sự. Khi lực lượng còn non yếu, ông đã liên kết với sứ quân [[Trần Lãm]] ở Bố Hải Khẩu ([[Thái Bình]]) rồi thu phục được [[Phạm Bạch Hổ]] ở Đằng Châu ([[Hưng Yên]]) về làm Thân vệ tướng quân. Cuối cùng khi lực lượng đủ mạnh ông không tiêu diệt mà hàng phục [[Ngô Nhật Khánh]] ở Đường Lâm ([[Hà Nội]]), [[Ngô Xương Xí]] ở Bình Kiều ([[Thanh Hóa]]) vốn là những hậu duệ nhà Ngô để lấy lòng thiên hạ.<ref>[http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Chuyen-khao/2013/06/3A9238C1/ Tầm nhìn chiến lược của Đinh Bộ Lĩnh]</ref>
 
Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân. Việc vua Đinh Tiên Hoàng khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt [[loạn 12 sứ quân]] là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới [[Đại Cồ Việt]]. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất Trung Hoa.
Hàng 116 ⟶ 112:
{{Chính|Đại Cồ Việt}}
[[Tập tin:Thai Binh Thong Bao- Dinh Bo Linh.JPG‎|nhỏ|phải|200px|Đồng [[tiền Thái Bình hưng bảo]], [[Tiền Việt Nam|tiền đầu tiên ở Việt Nam]]]]
Năm [[Mậu Thìn]] [[968]], Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi [[Hoàng đế]], tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế<ref>Sách An Nam chí lược viết vua xưng hiệu Vạn Thắng Vương</ref>, đặt quốc hiệu là [[Đại Cồ Việt]], dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi. <ref>Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 59</ref>
 
Tên Đại Cồ Việt (大瞿越). Đại là từ Hán-Việt và có nghĩa “vĩ đại: great”; Cồ là một chữ Việt có nghĩa “to lớn, vĩ đại: big“great“; được ký âm bằng một chữ Hán có âm tương ứng. <ref>PHÙNG HƯNG Vị Vua Như Cha Mẹ Kiểu Học Thuyết Mạnh Tử hay Nhà Lãnh Đạođạo Tối Caocao Kiểu Văn Hóa Úc Đa Đảo; Keith W. Taylor [http://www.gio o.com/NgoBac/NgoBacKeithTaylorPhungHung.htm]</ref>
 
Đinh Tiên Hoàng cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho [[Nguyễn Bặc]] là Định Quốc công, [[Đinh Điền]] là Ngoại giáp, [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] làm Thập đạo tướng quân, [[Lưu Cơ]] làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng thống [[Khuông Việt|Ngô Chân Lưu]] được ban hiệu là [[Khuông Việt]] đại sư, [[Trương Ma Ni]] làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là [[Đinh Liễn]] là Nam Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông.
 
Từ năm [[Canh Ngọ]] [[970]], bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc [[tiền đồng]], là tiền tệ xưa nhất ở [[Việt Nam]], gọi là tiền đồng Thái Bình.<ref>[http://bee.net.vn/channel/1984/201007/Thai-Binh-hung-bao-Dong-tien-dau-tien-cua-Viet-Nam-1760724/ Thái Bình hưng bảo: Đồng tiền đầu tiên của Việt Nam], Lê Đình Phụng, Báo Khoa học Đời Sống Online, ngày 27/07/2010</ref> [[Nhà Đinh]] là triều đại đầu tiên đặt nền móng cho nền tài chính - tiền tệ của Nhà nước phong kiến Việt Nam. Đồng tiền Thái Bình được đúc bằng đồng, hình tròn, lỗ vuông, có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ "Thái Bình Hưng Bảo", mặt sau có chữ "Đinh". Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào cũng cho đúc tiền của mình bằng đồng.
Hàng 126 ⟶ 122:
Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.
 
Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người trong khi dân số đất nước khoảng 3 triệu. Vua thực hiện "ngụ binh ư nông", đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà phát triển quân đội.<ref>Theo cuốn sách "Cố đô Hoa Lư" NXBNhà xuất bản Văn hóa dân tộc của Nguyễn Văn Trò</ref><ref>Theo trang 25 cuốn Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh</ref>
 
===Đóng đô Hoa Lư===
{{Chính|Kinh đô Hoa Lư}}
Kinh đô [[nhà Đinh]] đóng tại [[Hoa Lư]] ([[Ninh Bình]]), thuộc về Trường Châu thời Bắc thuộc lần 3. Dựa vào các khối đá vôi cao dựng đứng ôm lấy vùng đất cao không bị ngập do thủy triều và nước lũ, lại có [[sông Hoàng Long]] ở phía bắc, [[sông Sào Khê]] chảy xuyên qua kinh thành thuận lợi giao thông. Đinh Tiên Hoàng đã cho đắp những đoạn tường thành nhân tạo nối liền các dãy núi thiên nhiên để tạo thành một đô thành vững chắc bảo vệ cung vua bên trong<ref name="Nguyễn Việt 2010">Nguyễn Việt (2010), Hà Nội thời tiền Thăng Long, NXBNhà xuất bản Hà Nội, tr 827</ref>.
 
Việc Đinh Tiên Hoàng chọn [[Hoa Lư]] mà không chọn [[Cổ Loa]] của [[nhà Ngô]] hay [[Đại La]] thời [[Bắc thuộc]] được nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu xem là quyết định khôn ngoan. Với hoàn cảnh đương thời, sau nhiều năm loạn lạc, [[Hoa Lư]] là địa điểm chiến lược, nằm ở trung tâm đất nước thời đó, khống chế được cả khu vực sơn cước từ [[Thanh Hóa]] đổ ra, [[sông Đà]] đổ xuống, thêm địa thế vừa hùng vừa hiểm có thể cầm cự với [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]], nếu có cuộc xâm lăng của phía này tới<ref>Lê Văn Siêu (2006), Việt Nam văn minh sử, NXBNhà xuất bản Văn học, tr 461</ref>. Với việc chọn [[Hoa Lư]] quê hương làm kinh đô, Đinh Tiên Hoàng có thêm sức mạnh của yếu tố nhân hòa, bởi do thời [[loạn 12 sứ quân]] trước đó mà nhân dân các vùng khác có thể còn hoài cổ về sứ quân chiếm đóng.
 
Nhà địa chất, đồng thời là nguyên Chủ tịch nước [[Việt Nam|Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam]] [[Trần Đức Lương]] cũng cho rằng: tính hiểm yếu của Hoa Lư không chỉ nhờ phần thành lũy, nền điện mà chính bởi hệ thống các thung lũng núi sâu hơn bên trong có thể liên thông với nhau bởi các khe ngách mà ngày nay do nước biển dâng cao đã biến thành những lạch nước ngầm<ref name="Nguyễn Việt 2010"/>.
Hàng 139 ⟶ 136:
Từ năm 968, [[Hoa Lư]] trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam, tồn tại 42 năm (968 - 1010), gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là [[nhà Đinh]], [[nhà Tiền Lê]] và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Sau này các triều đại nhà Trần, nhà Tây Sơn đều xây dựng phòng tuyến ở vùng đất này để làm nên những chiến công vang dội. Hiện nay, Khu di tích [[cố đô Hoa Lư]] nằm trong [[quần thể di sản thế giới Tràng An]], trở thành một điểm du lịch văn hóa lịch sử nổi tiếng ở [[Ninh Bình]].
 
===Xưng Hoàng Đế===
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện: "''Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế''" và "''Vua mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế''".
 
Ở Trung Quốc việc xưng Vương có từ thời thượng cổ đến thế kỷ III trước Công nguyên. Đến thời Tần Thủy Hoàng mới tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế. Chữ ''Hoàng'' có nghĩa là người thống trị bậc cao nhất, Chữ ''Đế'' trước đó chỉ dùng để gọi Trời mà không dùng để gọi Vua. Tần Thủy Hoàng muốn khẳng định mình có uy quyền thống trị toàn bộ thế gian vì đã thôn tính được 6 nước khác thống nhất Trung Hoa qua việc đổi xưng Hoàng đế.<ref>Lã Đăng Bật, Kinh đô Hoa Lư xưa và nay, NXBNhà xuất bản Văn hóa dân tộc năm 2009, trang 31</ref>
 
Ở Việt Nam, từ thời Hồng Bàng có Kinh Dương Vương và Hùng Vương. Người xưng ''Đế'' đầu tiên là [[Lý Nam Đế]] (nếu công nhận tính chính thống của [[nhà Triệu]] thì người xưng Đế đầu tiên ở Việt Nam là [[Triệu Vũ Đế]]), tiếp theo là Mai Hoắc Đế. Việc xưng ''Đế'' của các vị vua này khẳng định nước Nam cũng có ''Nam Đế'' giống với ''Bắc Đế'' ở Trung Quốc. Nhưng riêng Lý Nam Đế và Mai Hoắc Đế mới xưng ''Đế'' mà chưa xưng ''Hoàng Đế'' và chỉ tồn tại một thời gian ngắn, sau đó đất nước chưa thoát khỏi thời Bắc thuộc.<ref>Lã Đăng Bật, Kinh đô Hoa Lư xưa và nay, NXBNhà xuất bản Văn hóa dân tộc năm 2009, trang 32</ref> Triệu Vũ Đế hoặc Đinh Tiên Hoàng là người xưng hoàng đế đầu tiên ở [[Việt Nam]].
 
Nhận xét về Đinh Tiên Hoàng đế, sử gia [[Lê Văn Hưu]] cho rằng ''có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết'', Lê Tung cho rằng ''vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy''.
Hàng 153 ⟶ 150:
Năm 975, vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm [[Giao Chỉ]] quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân [[Tiết độ sứ]] An Nam đô hộ.<ref>An Nam chí lược- Quyển Đệ nhị.</ref> Từ đó [[Đại Cồ Việt]] giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Như vậy bên ngoài vua Đinh bên ngoài thì xưng phiên thuộc nhưng trong nước thì vẫn xưng danh Đế.
 
Từ năm Thái Bình thứ 7 [976], thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ. Kếttại [[kinh đô Hoa Lư]] để kết mối giao thương.
 
==Cái chết==
{{Main|Vụ án Đỗ Thích}}
[[Tập tin:Codohoalu2010k6.jpg|nhỏ|phải|200px|Lăng mộ vua Đinh ở [[cố đô Hoa Lư]]]]
Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là [[Đinh Liễn]], nhưng ông lại lập con út [[Hạng Lang]] làm [[Thái tử]]. Vì vậy đầu năm [[Kỷ Mão]] [[979]], Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, tháng 11 (âm lịch) năm đó, một viên quan là [[Đỗ Thích]], mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và [[Đinh Liễn]]. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở sơn lăng [[Trường Yên]], [[kinh đô Hoa Lư]].
Hàng 162 ⟶ 160:
 
===Nghi án cung đình===
Cũng theo nhóm tác giả này, việc [[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] làm Phó vương khi [[Đinh Toàn]] lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần [[Nguyễn Bặc]], [[Đinh Điền]], [[Phạm Hạp]] khởi binh chống [[Lê Hoàn]] có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của [[Dương Vân Nga]]. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn [[Đinh Liễn]]. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện [[Đinh Liễn]] giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt [[Đinh Liễn]] mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng [[Lê Hoàn]] hành động.
 
Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến [[nhà Tống]] phát binh xâm lược [[Đại Cồ Việt]] chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với [[nhà Tống]] và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc [[Lê Hoàn]] thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết [[Đỗ Thích]] chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại (vì là quan nội thị) và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của [[Lê Hoàn]] và Dương hậu.
 
Tác giả [[Lê Văn Siêu]] trong sách [["Việt Nam văn minh sử]]"<ref name="ReferenceA">"Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, NXBNhà xuất bản VHTT, 2004</ref> nêu ra giả thiết:
:''Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để "diệt khẩu".''
Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. [[Nguyễn Bặc]] là bạn "chí cốt" của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không "thờ" Liễn (chọn chủ tương lai) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai [[Đỗ Thích]] giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu.
 
Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác:<ref name="ReferenceA"/>
:''Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho [[nhà Tống]] thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.''
Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. [[Lê Hoàn]] lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Đã giết được Giao Chỉ quận vương" là vượt biên giới ngay để người Nam bị ''"sét đánh không kịp bưng tai"'' thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo [[Đại Việt sử ký toàn thư]], cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi [[Lê Hoàn]] đã lên ngôi (tháng 7 năm 980), nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của [[Đinh Toàn]] xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng "lễ" để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian cho [[Lê Hoàn]] dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi.
 
===Lời bàn===
Hàng 187 ⟶ 185:
:"''Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều [[Trung Quốc]] suy loạn rồi [[Tống Thái Tổ]] nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy."''
Nhà sử học [[Phan Huy Chú]] trong "Lịch triều hiến chương loại chí" nhận xét:
:"''Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với [[Trung Quốc]] nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội... đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ, sách phong của [[Trung Quốc]] mới cho đứng riêng là một nước."''
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong "Đại Việt sử ký tiền biên" nhận xét:
:"''Tiên Hoàng dấy lên từ một người áo vải, một lần nổi lên dẹp được 12 sứ quân. Rồi dựng nước, dựng kinh đô, đổi niên hiệu, chính ngôi vua. Võ công vang khắp, văn hóa đều đổi mới...''" <ref>Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên. NxbNhà xuất bản Khoa học xã hội, H. 1997, trang 155.)</ref>
Sử gia Ngô Sỹ Liên trong ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'' nhận xét:
:"''Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng... song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay! "''
Lê Tung trong nhận xét trong "Việt giám thông khảo tổng luận":
:''"Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc mất nước, dẹp được Mười hai sứ quân, trời cho người theo, nhất thông bờ cõi, dùng bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trinh Tú làm người phù tá, sáng chế chiều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy. Kể về mặt dẹp giặc phá định, thì công to lắm; nhưng tông miếuchưa dựng, nhà học chưa xây, đặt vạc, nuôi hổ để làm đồ dùng hình ngục, biếu tê dâng voi, chỉ vất vả về cống dâng; lễ nhạc hình chính không sửa sang, giữ cửa canh đêm không cẩn thận; rốt cùng chính mình bị giết, nước bị nguy, vạ lây đến con, đó là không có mưu phòng giữ từ lúc việc còn bé nhỏ, ngăn ngừa từ khi việc mới chớm ra. ".''"<ref>[http://www.nomfoundation.org/nom-project/History-of-Greater-Vietnam/Fulltext/106-Khao-tong-luan] Việt giám thông khảo tổng luận; Lê Tung</ref>
 
Đinh Tiên Hoàng là người có công đánh dẹp [[loạn 12 sứ quân]], thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm [[Bắc thuộc]]. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.<ref>''Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh'', NXB Quân đội nhân dân trang 27<name="ReferenceB"/ref> Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế: Thời kỳ phục quốc của [[Việt Nam]], từ [[Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)|họ Khúc]] chỉ xưng làm [[Tiết độ sứ]], tới [[Ngô Quyền]] xưng [[vương]] và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc<ref>bao gồm [[Triệu Vũ Đế]], [[Triệu Văn Đế]] (nếu công nhận tính chính thống của [[nhà Triệu]]), [[Lý Nam Đế]], [[Mai Hắc Đế]]<name="ReferenceC"/ref> rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời [[nhà Đinh]], người cầm quyền [[Việt Nam]] mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng [[Hoàng đế]] như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở [[Việt Nam]]<ref>[http:// name="m.kienthuc.net.vn"/kim-chi-da-lua/201009/Nuoc-Viet-co-nen-quan-che-doc-lap-tu-khi-nao-399764/ Nước Việt có nền quan chế độc lập từ khi nào?], Báo Kiến Thức, ngày 15/09/10</ref><ref>[http://www. name="vietnamplus.vn"/Home/Ruoc-lua-thieng-tu-co-do-Hoa-Lu-ve-Thang-Long/20109/58803.vnplus Rước lửa thiêng từ cố đô Hoa Lư về Thăng Long], Vũ Văn Đạt, Báo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 02/09/2010</ref><ref>[http://www.hoankiem.gov.vn/city_info/anzeige/news/aktuelles/show.cfm?region_id name=70&keyword=&id=1694 "Phố Đinh Tiên Hoàng], Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm.<"/ref>, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
 
===Điểm giống Tần Thủy Hoàng===
Cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Việt Nam, có nhiều điểm giống với [[Tần Thủy Hoàng]] của Trung Hoa:<ref>[http://baophapluat.vn/phap-luat-4-phuong/dinh-tien-hoang-va-tan-thuy-hoang-nhung-trung-hop-ky-la-223667.html Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng - Những trùng hợp kỳ lạ]</ref><ref>[http://www.baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Nhan-vat-lich-su/2013/05/3A9237A5/ Trùng hợp lạ lùng giữa vua chúa VN và thế giới], Cập nhật: 5:05 PM GMT+7, Thứ tư, 08/05/2013 Bảo tàng lịch sử quốc gia</ref>
*Tên gọi ''Tiên Hoàng'' hay ''Thủy Hoàng'' đều có ý nghĩa là ''hoàng đế đầu tiên''. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế ''mở nền chính thống'' đầu tiên của nước Việt thống nhất<ref>Thực ra cách gọi "Tiên Hoàng" để coi là hoàng đế đầu tiên, đã bỏ qua không tính tới 5 vị xưng đế trước, là [[Triệu Vũ Đế]], [[Triệu Văn Đế]], [[Lý Nam Đế]], [[Hậu Lý Nam Đế]] và [[Mai Hắc Đế]]; vì 2 vị vua đầu vẫn còn nhiều tranh cãi về tính chính thống của nhà Triệu, còn ba vị sau xưng đế trong khoảng thời gian độc lập không dài giữa thời [[Bắc thuộc]]</ref>, Tần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất [[Trung Quốc (khu vực)|Trung Hoa]].
*Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 - 979), [[Tần Thủy Hoàng]] (221 - 210 TCN).
*Danh hiệu: Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời [[nhà Chu]], các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời [[Chiến Quốc]] cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời [[Họ Khúc (lịch sử Việt Nam)|họ Khúc]], những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng [[Tiết độ sứ]] với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về [[Trung Quốc]]. Tới [[nhà Ngô]], các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng [[hoàng đế]], cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng.
Hàng 224 ⟶ 221:
{{Xem thêm|Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh|Đền Vua Đinh Tiên Hoàng|Động Hoa Lư}}
[[Tập tin:Codoj6.JPG|nhỏ|phải|240px|Phong cảnh [[cố đô Hoa Lư]]]]
Các di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng rất đa dạng và có ở nhiều vùng miền khác nhau như ở [[Ninh Bình]], [[Nam Định]], [[Hà Nam]], [[Thái Bình]], [[Hà Nội]], [[Lạng Sơn]], [[Bắc Kạn]], [[Phú Thọ]], [[Thanh Hóa]], [[Hòa Bình]], [[Quảng Bình]], [[Đà Nẵng]], [[Đắc Lắc]], [[Hưng Yên]], [[Quảng Nam]]... [[Tướng nhà Đinh|Các vị quan trung thần]] của vua Đinh Tiên Hoàng cũng được thờ ở rất nhiều nơi, qua đó thấy được sự nghiệp và tình cảm đặc biệt mà nhân dân dành cho vị vua này.
 
[[Ninh Bình]] hiện còn ít nhất 23 di tích thờ Đinh Tiên Hoàng,<ref>Xem cuốn Cố đô Hoa Lư NXBNhà xuất bản VHDT, Nguyễn Đăng Trò trang 124</ref><ref>[http://www.vietdulieu.com/web/guest/the-thao/view?assetpublish=96265&entries=tin%20the%20thao Những di tích đền thờ Đinh Tiên Hoàng]</ref> và nhiều nơi phối thờ Vua với các vị thần khác. Các đền thờ Vua đều nằm ở phía bắc tỉnh [[Ninh Bình]] (trong khi các đền thờ [[Lê Đại Hành]] lại nằm ở nửa phía nam của tỉnh này). Các đền, đình tiêu biểu như: [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]], đình Yên Trạch, đình Yên Thành, Phủ Đại ở khu di tích [[cố đô Hoa Lư]], xã Trường Yên; đình Trung Trữ xã [[Ninh Giang, Hoa Lư]]; Núi Kỳ Lân và [[đền thờ Đinh Bộ Lĩnh]] ở xã Gia Phương; đình Viến và đền thung Lau ở [[động Hoa Lư]]; đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú, huyện [[Gia Viễn]]; di tích Đàn Tế Trời ở đồi Thờ, xã Quỳnh Lưu; đền Vua Đinh ở thôn Lão Cầu, xã Văn Phú; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba ở xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, đền Bóng, đình Ngọc Mỹ thôn Me, đình Vua làng Xát, đền làng Đông Thịnh ở xã Sơn Lai huyện [[Nho Quan]].
 
[[Quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định]] gồm có [[Đền Vua Đinh (Yên Thắng)|đền vua Đinh ở xã Yên Thắng]], đình Thượng Đồng, đền Thượng Thôn, đình Cát Lũy, đình Tân Cầu ở xã Yên Tiến, [[Ý Yên]]; đình Bườn xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc; đình làng việt cổ Bách Cốc, [[Vụ Bản]]; đền vua Đinh ở Giao Thủy, Khu tưởng niệm Vua Đinh ở xã Xuân Kiên, Xuân Trường… [[Hà Nam]] có [[đền Lăng]] ở [[Thanh Liêm]]; đình Lạc Nhuế ở xã Đồng Hóa và đền Đặng Xá ở Văn Xá, [[Kim Bảng]]; đền Ung Liêm ở [[Phủ Lý]]… Hà Nội có đền Đinh Tiên Hoàng Đế ở làng Vài, xã Hợp Thanh huyện Mỹ Đức với lễ hội mở hàng năm, đền Bách Linh ở Hòa Nam, Ứng Hòa đúc tượng thờ Vua Đinh cùng bài vị thờ 99 vị thần khác hay đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì…
 
Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, [[Hoà Vang]]; Quảng Nam có tượng Vua Đinh trong nhà thờ Tộc Đinh ở Hạ Nông, Điện Bàn; [[Lạng Sơn]] có [[đình Pác Mòng]] thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, [[thành phố Lạng Sơn]];<ref>[http://www.langson.gov.vn/nguoidan/node/149 Lễ hội Lạng Sơn- Lễ hội Đình Pác Mòng]</ref> [[Thanh Hóa]] có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Thọ Tân, [[Triệu Sơn]]; Bắc Kạn có đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi huyện Na Rì thờ Vua Đinh. Hưng Yên có đình Phù Liệt ở xã Thắng Lợi, Văn Giang thờ Vua Đinh và ngũ vị đại vương giúp vua dẹp loạn.<ref>[http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_xahoi/_mobile_tintucxh/item/16471602.html Ðình Phù Liệt, một danh thắng lịch sử]</ref> Thái Bình có miếu Vua Đinh ở xã Song An, Vũ Thư và chùa Kỳ Bá ở thành phố Thái Bình; Vĩnh Phúc có chùa An Hòa, Vĩnh Yên với ngôi tổ đường thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Phú Thọ có [[đình Nông Trang]] là nơi thờ Đinh Bộ Lĩnh gắn với sự kiện hưởng ứng của dân địa phương khi vua về đây dẹp 2 sứ quân họ Kiều;<ref>[http://phutho.gov.vn/gioi-thieu/-/vcmsviewcontent/q4Mj/110/52390/le-hoi-inh-nong-trang.html;jsessionid=ACCFE1D6174694E492A0D6455C7DD2E0 Lễ hội đình Nông Trang]</ref> Người Mường [[Hòa Bình]] thờ vua Đinh ở đình Sóc Bai (hay đình Xác Bái) ở xã Yên Bồng, Lạc Thủy; [[Đăk Lăk]] có đình Cao Phong<ref>[http://www.vae.org.vn/News_print.asp?id=2994 Đỉnh Cao Phong với tín ngưỡng của người Mường xa xứ (Số 89/2006)]</ref> ở Hòa Thắng, [[Buôn Ma Thuột]]; Quảng Bình có nơi thờ Vua Đinh ở Đồng Hới; Thừa Thiên Huế có miếu Lịch Đại Đế Vươngvương thờ Vua Đinh cùng với các vị Vua Hồng Bàng là những vị vua khai sáng... Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở [[Thành phố Hồ Chí Minh]] được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm [[thành phố Ninh Bình]] đã xây dựng khu [[quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế]].
 
Nhiều di sản văn hóa phi vật thể liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Vua Đinh Tiên Hoàng như: Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương (Yên Lạc, [[Vĩnh Phúc]]) lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng" suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Tục ném đá ở vùng Cát Ngạn (gồm 8 xã ở Thanh Chương, Nghệ An) mà trọng tâm là ở Cát Văn của người dân Thanh Chương vào dịp Tết Đoan ngọ hàng năm để tưởng nhớ tinh thần thượng võ của [[Đinh Bộ Lĩnh]] thưở nhỏ khi người cha còn làm thứ sử Hoan Châu.<ref>[http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/item/27035402-nguoi-thanh-chuong-vuot-dat.html Người Thanh Chương "vượt đất"]</ref> Các [[lễ hội cố đô Hoa Lư]], lễ hội [[động Hoa Lư]] ở [[Ninh Bình]] cũng diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. [[Trò Xuân Phả]] ở Thanh Hóa và nghệ thuật [[hát chèo]] là những di sản văn hóa khởi nguồn từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì.
 
<gallery>
Hàng 250 ⟶ 247:
***Trinh Thục Hoàng hậu: là Đệ nhị cung phi trong Hoàng cung nhà Đinh. Bà là người có nhan sắc, tài nghệ văn chương và tinh thông võ nghệ. Bà được thờ ở đền Thánh Mẫu, xã Đông Sơn, Đông Hưng, [[Thái Bình]]. Trong sắc phong ở đền thờ hoàng hậu triều Đinh có ghi: "Trinh Thục hoàng hậu" và "Đệ nhị cung phi". Trong số 5 bà hoàng hậu triều Đinh, hoàng hậu thứ 2 có tên là Trinh Minh Hoàng hậu. Rất có khả năng tên của 2 vị này là 1 người (Trinh Minh – Trinh Thục). Tương tự như Trường hợp của Bà tổ nghề may [[Nguyễn Thị Sen]] thần tích ghi chép là Tứ phi Hoàng hậu, đối chiếu với tên gọi 5 Hoàng hậu tương đương với tên gọi Cồ Quốc.
***[[Dương Vân Nga]]: là hoàng hậu của 2 vua Đinh Tiên Hoàng và [[Lê Đại Hành]] trong lịch sử Việt Nam. Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ [[nhà Đinh]] sang [[nhà Tiền Lê]]. Người con trai của bà với Đinh Tiên Hoàng tên Đinh Toàn, là vua cuối của nhà Đinh còn người con gái của bà với [[Lê Đại Hành]] là [[Lê Thị Phất Ngân]] trở thành hoàng hậu của Lý Thái Tổ, mẹ vua Lý Thái Tông sau này. Vì là một người đàn bà quyền lực của nhiều triều đại, sử sách thường gọi bà với cái tên trang trọng là Dương hậu hay Dương thái hậu. Hiện nay, trong các đền thờ, tên đường và các tác phẩm văn học nghệ thuật, người Việt gọi bà là Thái hậu [[Dương Vân Nga]]. Theo giai thoại dân gian, [[Dương Vân Nga]] là con gái của ông Dương Thế Hiển, quê ở vùng [[Nho Quan]], [[Ninh Bình]]. Cái tên Vân Nga là ghép từ Vân Long và Nga My là tên thôn quê cha mẹ bà<ref>[http://www.ninhbinh.gov.vn/web/guest/danh-nhan-van-hoa/-/asset_publisher/6gpS/content/thai-hau-duong-van-nga-952-1000-1;jsessionid=F6F2F6D83A6F353644A91787E2BC88CC?redirect=%2Fweb%2Fguest%2Fdanh-nhan-van-hoa Thái Hậu Dương Vân Nga (952-1000)]. Cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình. [Ngày 15 tháng 8 năm 2013].</ref> Từ khi Vua Đinh và Thái tử [[Đinh Hạng Lang]] (con trai của Hoàng hậu Đan Gia) bị sát hại, Dương Vân Nga mới thực sự làm chủ Hậu cung với tư cách là mẹ của Vua mới [[Đinh Toàn]]. Lê Hoàn sau khi chiến thắng quân Tống lập nên [[nhà Tiền Lê]]. Dương Vân Nga trở thành một trong năm Hoàng hậu của Lê Đại Hành.
***[[Nguyễn Thị Sen]]: là tứ phi Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng trong [[lịch sử Việt Nam]], Bà được coi là bà tổ nghề may. Bà quê quán ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm huyện [[Ứng Hòa]], [[Hà Nội]]. Theo thần tích đền thờ tổ nghề ở Trạch Xá, Bà tổ của nghề may là [[Nguyễn Thị Sen]], một người con gái xinh đẹp, đảm đang của làng Trạch Xá. Với sự khéo léo và sáng tạo, bà đã giúp các cung nữ phát triển, sáng tạo được nghề may trong cung vua. Sau khi Vua Đinh Tiên Hoàng mất, quyền lực hậu cung rơi vào tay [[Dương Vân Nga]] và [[Lê Hoàn]],<ref>[http://tapchicongthuong.vn/ba-to-cua-nghe-may-nguyen-thi-sen-20130822024653579p17c352.htm Bà tổ của nghề may - Nguyễn Thị Sen]</ref> bà đã từ giã hoàng cung cùng với con gái trở về quê hương truyền dạy nghề cho nhân dân trong làng. Khi mất bà được lập đền thờ và tôn làm bà tổ nghề áo dài truyền thống.
***Dương Nguyệt Nương: là Hoàng hậu được thờ ở thôn Đặng Xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Bà là người đã sinh ra công chúa Ngọc Nương..
 
*Con:
**Con trai: Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai [[Đinh Liễn]], [[Đinh Hạng Lang]], [[Đinh Toàn]].
Hàng 265 ⟶ 261:
*An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giả:Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961
*[[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]]; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
*Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sỹ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứucứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu; Nhà xuất bản: Văn Sử 1991
*Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận; soạn giả Lê Tung. <ref>[http://www.nomfoundation.org/nom-project/History-of-Greater-Vietnam/Fulltext/106-Khao-tong-luan] Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận</ref>
*Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim, Bộ giáo dục- Trung tâm học liệu xuất bản.
*Lịch triều hiến chương loại chí; Soạn giả Phan Huy Chú; dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản giáo dục, năm 2006.
Hàng 274 ⟶ 270:
 
==Xem thêm==
*[[Nhà Đinh]]
*[[Dương Vân Nga]]
*[[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] (黎桓)
*[[Tướng nhà Đinh]]
*[[ĐàoHoa Hoàng]] (陶璜)
*[[Lê Đại Hành|Lê Hoàn]] (黎桓)
*[[Nguyễn Thị Hoàn]] (阮氏環)
*[[Húy kỵ]]
 
{{Thể loại Commons|Đinh Tiên Hoàng}}
Hàng 292 ⟶ 288:
{{Cuối hộp}}
{{Vua nhà Đinh}}
{{12 sứ quân}}
}}
{{Lịch sử Việt Nam thời Đinh}}
{{Thời gian sống|sinh = 924|mất = 979}}
 
[[Thể loại:Vua nhà Đinh]]