Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hậu Tấn Xuất Đế”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Bình luận: Bình luận trong wiki? |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
'''Hậu Tấn Xuất Đế''' hay Thiếu Đế '''Thạch Trọng Quý''' (914-974), là vị vua thứ hai của [[Nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)|nhà Hậu Tấn]]. Ông trị vì từ năm 942 tới năm 946.
==
Thạch Trọng Quý là con của Thạch Kính Nho và An thị<ref name=TTQ81>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E4%BA%94%E4%BB%A3%E5%8F%B2/%E5%8D%B781 Cựu Ngũ đại sử, quyển 81]</ref>. Ông sinh ngày 27 tháng 6 âm lịch năm 914<ref name=TTQ81 /> tại [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]]. Kính Nho là anh trai của [[Hậu Tấn Cao Tổ]] Thạch Kính Đường nhưng chết sớm, do đó Trọng Quý được Kính Đường nhận làm con (tụng tử). Hậu Tấn Cao Tổ có 6 con trai nhưng 5 người chết sớm, chỉ còn người con thứ sáu là Thạch Trọng Duệ còn ít tuổi. Sau khi Kính Đường làm phản [[nhà Hậu Đường]] để lập ra [[Nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)|nhà Hậu Tấn]] năm 936 thì ông được phong làm Kim tử quang lộc đại phu, kiểm giáo tư đồ và điều đi làm phủ doãn Thái Nguyên, rồi tiết độ sứ Hà Đông<ref name=TTQ81 />.
Tháng 9 năm Thiên Phúc thứ 2 (937) tấn phong quang lộc đại phu, kiểm giáo thái bảo, hữu kim ngô vệ thượng tướng quân<ref name=TTQ81 />. Tháng 12 năm Thiên Phúc thứ 3 (938), đảm nhận chức phủ doãn Khai Phong, gia thêm hàm kiểm giáo thái phó, tấn phong Trịnh vương, tăng thực ấp 3.000 hộ. Sau đó phong thêm là kiểm giáo thái uý, đồng trung thư môn hạ bình chương sự<ref name=TTQ81 />.
Năm Thiên Phúc thứ 6 (941) đổi sang làm phủ doãn Quảng Tấn, tấn phong Tề vương. Đầu năm sau (942) kiêm thêm chức thị trung<ref name=TTQ81 />.
== Cai trị ==
Tháng 6 năm Thiên Phúc thứ 7 (942), Hậu Tấn Cao Tổ chết. Trọng Quý kế vị. Ông vẫn duy trì niên hiệu Thiên Phúc. Năm 943 tại 27 châu quận của nhà Hậu Tấn phát sinh nạn châu chấu làm cho tới 100.000 người chết đói. Năm sau, tại Lũng Châu có tới 56.000 người chết đói.
Thạch Trọng Quý nghe theo lời khuyên của trọng thần [[Cảnh Diên Quảng]], bỏ chính sách thần phục người [[Khiết Đan]] của Hậu Tấn Cao Tổ, không chịu xưng thần với [[nhà Liêu]] của người Khiết Đan, làm cho quan hệ hai nước xấu đi. Tháng giêng năm Thiên Phúc thứ 9 (944) nhà Liêu bắt đầu đem quân tấn công Hậu Tấn. Tháng 7 năm đó ông đổi niên hiệu thành Khai Vận. Chiến tranh giữa hai bên kéo dài trong ba năm với nhiều trận thắng thua cho cả hai bên. Tháng 12 năm Khai Vận thứ 3 các tướng [[Đỗ Uy]], [[Lý Thủ Trinh]], [[Trương Ngạn Trạch]] đem quân hàng Khiết Đan. Nhà Liêu sai Trương Ngạn Trạch làm tiên phong tấn công Khai Phong. Thạch Trọng Quý đầu hàng.
==Sau
Tháng giêng năm 947, vua [[Liêu Thái Tông]] Da Luật Đức Quang giáng Thạch Trọng Quý làm quang lộc đại phu, kiểm giáo thái úy, phong Phụ Nghĩa hầu. Hậu Tấn chính thức diệt vong. Thạch Trọng Quý bị an trí tại Hoàng Long phủ<ref name=TTQ85 />, sau đó di dời tới Kiến Châu<ref name=TTQ85 />. [[Cựu Ngũ đại sử]] dẫn "Tấn triều hãm phiền kí" của Phạm Chất cho rằng Thạch Trọng Quý chết năm 964 [phàm thập bát niên nhi tốt]<ref name=TTQ85>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E4%BA%94%E4%BB%A3%E5%8F%B2/%E5%8D%B785 Cựu Ngũ đại sử, quyển 85]</ref>. Nhưng bia mộ của Thạch Trọng Quý (hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh [[Liêu Ninh]]) thì chép rằng ông chết ngày 18 tháng 6 âm lịch năm Bảo Ninh thứ 6 thời [[Liêu Cảnh Tông]] Da Luật Hiền (tức năm 974).
== Xem thêm ==
*[[Nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)|Nhà Hậu Tấn]]
==Tham khảo==
{{reflist}}
{{s-start}}
{{s-hou|[[Nhà Hậu Tấn (Ngũ đại)|Hoàng tộc họ Thạch]]| |914| | năm 974}}
Dòng 32:
{{Vua thời Ngũ đại Thập quốc}}
{{thời gian sống|914|
[[Thể loại:Vua Hậu Tấn]]
|