Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Protein”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 71:
Có thêm nhiều trình tự gen được giải mã hơn so với số lượng protein có cấu trúc được làm rõ. Ngoài ra, tập hợp những cấu trúc được quan sát bị chệch khỏi hình dạng nguyên sinh của protein do tác động từ những điều kiện quan sát đòi hỏi trong kỹ thuật tinh thể học tia X, một trong những phương pháp chính nhằm xác định cấu trúc protein. Đặc biệt, những protein dạng cầu thường dễ dàng chuẩn bị làm mẫu tinh thể hóa trước khi tiến hành kỹ thuật chụp tinh thể học tia X. Ngược lại, các protein dạng màng, lại rất khó để đưa về dạng tinh thể và chưa có dữ liệu về chúng trong PDB.<ref name=Walian2004/> Hướng nghiên cứu "bộ gen mã hóa cấu trúc protein" (structural genomics) được khởi xướng gần đây đã cố gắng giảm bớt những lỗ hổng hiểu biết này bằng cách giải quyết một cách hệ thống cho cấu trúc của một số lớp protein thông qua cách chúng uốn gập. Phương pháp dự đoán cấu trúc protein có mục đích mang lại một bức tranh sơ bộ về cấu trúc của những protein mà chúng chưa được xác định cấu trúc bằng thực nghiệm.<ref name=Sleator2012/>
==
Protein là diễn viên chính bên trong tế bào, thực hiện các nhiệm vụ xác định bởi thông tin mã hóa trong gen.<ref name=Lodish2004/> Ngoại trừ đối với một số loại [[RNA]] nhất định, hầu hết các phân tử sinh học khác là những phân tử tương đối trơ với tác dụng của protein. Protein chiếm một nửa trọng lượng khô của tế bào vi khuẩn ''[[Escherichia coli]]'', trong khi những đại phân tử khác như DNA và RNA chỉ chiếm tương ứng 3% và 20%.<ref name="Voet">Voet D, Voet JG. (2004). ''Biochemistry'' Vol 1 3rd ed. Wiley: Hoboken, NJ.</ref> Tập hợp các protein biểu hiện trong một tế bào cụ thể hoặc một loại tế bào được gọi là hệ protein ([[proteome]]) hay bộ protein hoàn chỉnh.
[[tập tin:Hexokinase ball and stick model, with substrates to scale copy.png|nhỏ|right|Enzyme [[hexokinase]] được minh họa theo mô hình phân tử thường gặp quả bóng và thanh nối. Để so tỷ lệ, ở góc bên phải là hai cơ chất của nó, [[adenosine triphosphate|ATP]] và [[glucose]].]]
Đặc trưng chính của protein mà cũng làm lên các chức năng đa dạng đó là khả năng của chúng liên kết một cách đặc hiệu và chặt với các phân tử khác. Vùng protein có tính năng liên kết với các phân tử khác được gọi là vùng liên kết (binding site) và thường là những khe rãnh (depression) hoặc "túi" ("pocket") trên bề mặt phân từ. Khả năng liên kết này được thực hiện trung gian thông qua bởi cấu trúc bậc ba của protein, mà xác định vị trí túi liên kết, và bởi các tính chất hóa học của các chuỗi nhánh bên axit amino xung quanh. Liên kết protein có thể rất đặc hiệu và cực kỳ chặt; ví dụ, [[protein ức chế ribonuclease]] (ribonuclease inhibitor protein) liên kết với protein [[angiogenin]] ở người với [[hằng số phân ly]] cỡ dưới femto mol (<10<sup>−15</sup> M) nhưng không liên kết với protein [[onconase]] tương đồng ở động vật lưỡng cư (>1 M). Những sự thay đổi hóa học rất nhỏ như thêm vào một nhóm methyl ở phân tử liên kết đôi khi đủ làm gần như loại bỏ liên kết với protein; ví dụ, [[aminoacyl tRNA synthetase]] đặc hiệu với axit amino [[valine]] lại rất phân biệt với [[isoleucine]] mặc dù có nhánh axit amino rất tương đồng.<ref name=Sankaranarayanan2001/>
=== Nhu cầu protein ===
|