Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Protein”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 225:
 
Nhà hóa học người Hà Lan [[Gerardus Johannes Mulder]] là người đầu tiên miêu tả về protein và tên gọi này được nhà hóa học người Thụy Điển [[Jöns Jacob Berzelius]] đặt vào năm 1838.<ref name="Mulder1938">Bulletin des Sciences Physiques et Naturelles en Néerlande (1838). pg 104. [https://archive.org/details/bulletindesscien00leyd SUR LA COMPOSITION DE QUELQUES SUBSTANCES ANIMALES]</ref><ref name="Hartley">{{cite journal | author = Hartley Harold | year = 1951 | title = Origin of the Word 'Protein.' | url = | journal = Nature | volume = 168 | issue = 4267| pages = 244–244 | doi = 10.1038/168244a0 | bibcode = 1951Natur.168..244H }}</ref> Mulder thực hiện các phân tích sơ cấp về những protein phổ biến và ông tìm thấy gần như mọi protein có cùng một [[công thức thực nghiệm]], C<sub>400</sub>H<sub>620</sub>N<sub>100</sub>O<sub>120</sub>P<sub>1</sub>S<sub>1</sub>.<ref name=Perrett2007/> Ông đi đến kết luận sai lầm rằng chúng phải là hỗn hợp của một loại phân tử rất lớn. Thuật ngữ "protein" dùng cho những phân tử này do Berzelius, một đồng nghiệp của Mulder, đề xuất; protein bắt nguồn trong [[tiếng Hy Lạp]] πρώτειος (''proteios''), nghĩa là "sơ cấp",<ref>''New Oxford Dictionary of English''</ref> "dẫn đầu", hoặc "đứng phía trước",<ref name=Reynolds2003/> + ''[[wikt:-in#Suffix|-in]]''. Mulder nhận biết được các sản phẩm của sự thoái hóa protein như axit amin [[leucine]] mà ông tìm thấy (một cách gần đúng) trọng lượng phân tử bằng 131 [[đơn vị khối lượng nguyên tử|Da]].<ref name=Perrett2007/>
 
Những nhà dinh dưỡng học thời đầu như [[Carl von Voit]] người Đức tin rằng protein là thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất để duy trì cấu trúc của cơ thể, bởi vì niềm tin phổ biến thời đấy cho rằng "máu tươi tạo máu tươi" ("flesh makes flesh").<ref name=Bischoff1860/> [[Karl Heinrich Ritthausen]] thêm vào các dạng protein đã biết bao gồm [[axit glutamic]]. Ở Trung tâm thí nghiệm nông nghiệp Connecticut (Connecticut Agricultural Experiment Station), nhà hóa học [[Thomas Burr Osborne (nhà hóa học)|Thomas Burr Osborne]] đã thực hiện đánh giá chi tiết các loại protein có trong cây trồng. Nghiên cứu cùng [[Lafayette Mendel]] và áp dụng [[quy luật cực tiểu của Liebig]] khi nuôi [[chuột thí nghiệm]], họ đã thiết lập lên danh mục các axit amino dinh dưỡng thiết yếu. Công trình này được tiếp tục nghiên cứu và trao đổi hợp tác với [[William Cumming Rose]]. Hiểu biết protein là các chuỗi [[polypeptide]] thông qua nghiên cứu của hai nhà hóa học [[người Đức]] [[Franz Hofmeister]] và [[Hermann Emil Fischer]] vào năm 1902.<ref>{{cite web|url=http://www.encyclopedia.com/science/dictionaries-thesauruses-pictures-and-press-releases/hofmeister-franz|title=Hofmeister, Franz|publisher=encyclopedia.com|accessdate=4 April 2017}}</ref><ref>{{cite web|url=https://www.britannica.com/science/protein/Conformation-of-proteins-in-interfaces#ref593795|title=Protein, section: Classification of protein|publisher=britannica.com|accessdate=4 April 2017}}</ref> Vai trò trung tâm của protein làm [[enzyme]] xúc tác trong sinh vật sống không được đánh giá đầy đủ cho đến tận năm 1926, khi [[James B. Sumner]] chỉ ra enzyme [[urease]] thực chất là một protein.<ref name=Sumner1926/>
 
Sự khó khăn trong quá trình tinh sạch protein thành lượng lớn khiến các nhà hóa sinh nghiên chúng rất khó khăn ở thời điểm đầu. Do vậy, những nghiên cứu ban đầu tập trung vào những protein được tinh lọc lượng lớn, ví dụ như của [[máu]], lòng trứng trắng, nhiều [[độc tố]] khác nhau, và các enzyme tiêu hóa / trao đổi chất lấy từ các [[lò sát sinh]]. Trong thập niên 1950, công ty Armour Hot Dog Co. đã lọc được khoảng 1&nbsp;kg thuần khiết [[ribonuclease A]] từ tuyến tụy của bò và cung cấp miễn phí cho các nhà khoa học; nhờ thế mà ribonuclease A trở thành mục tiêu nghiên cứu chính của hóa sinh trong hàng thập kỷ sau đó.<ref name=Perrett2007/>
 
==Tham khảo==