Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ nghĩa xã hội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Wotvietnam (thảo luận | đóng góp)
Dòng 51:
Cả hai phía ủng hộ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội đều đổ lỗi cho nhau trong sự xuất hiện của [[chủ nghĩa phát xít]]. Sự phát triển của các phong trào [[Hồi giáo cực đoan]] được những người theo chủ nghĩa xã hội đổ lỗi cho sự khuyến khích của chủ nghĩa tư bản để chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng bản thân những người này có khi cũng chống cả chủ nghĩa tư bản.{{fact}}
 
Những người ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản hay theo chủ nghĩa tư bản thường dựa trên lập trường của [[chủ nghĩa cá nhân]], vì thế họ thường coi trọng các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Chủ nghĩa tư bản hỗ trợ cho quá trình xóa bỏ nhà nước quân chủ thần quyền ở châu Âu, tuy nhiên do những khuyết tật vốn có của nó nên các nền [[dân chủ đại nghị]] được xây dựng sau đó thường "méo mó" và chỉ được hoàn thiện thêm các giai đoạn sau này. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ đắc lực cho [[chủ nghĩa đế quốc]] lần thứ nhất (sau các phát kiến địa lý) mà chủ yếu là ở các vùng đất mới như châu Mỹ, mặc dù nó được xem là hệ quả của chính sách các chính quyền quân chủ đương thời nhiều hơn. Các công ty tư bản còn lập ra các hải đội để xâm chiếm [[thưộc địa]] ở các vùng đất nghèo nàn, lạc hậu hơn như châu Á, châu Phi... Tuy nhiên các quá trình xâm chiếm chiếm thuộc địa bị gián đoạn trong giai đoạn [[châu Âu]] xảy ra nhiều cuộc cách mạng, chiến tranh đầu thế kỷ XIX.{{fact
 
Chủ nghĩa tư bản một lần nữa góp phần tạo dựng lên [[chủ nghĩa đế quốc]] lần thứ hai nửa sau thế kỷ XIX, mặc dù nó hay được xem là hệ quả của chính sách quân phiệt, hay dân tộc nước lớn nhiều hơn. Quá trình thực dân hóa kết thúc vào khoảng những năm 1960. Nhìn chung chủ nghĩa tư bản đã hỗ trợ nhiều hơn cho các quá trình hiện đại hóa ở các chính quốc (và cả các tác động từ lực lượng cánh tả chủ yếu cánh tả ôn hòa), nhưng lại được xem là có lỗi khi cùng tư tưởng dân tộc nước lớn tạo dựng nên các thuộc địa cai trị hà khắc (trừ một số ít nơi), cho dù hệ quả gián tiếp là các tư tưởng [[dân chủ]] cũng xâm nhập vào các vùng đất này đi kèm với sự suy yếu của hệ thống phong kiến và quá trình hiện đại hóa bộ máy quản lý cai trị.{{fact}}
 
Tuy nhiên đứng trước lo ngại của phong trào [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]] (chủ yếu là mang tính cấp tiến) hay cộng sản chủ nghĩa, hay các phong trào tôn giáo cực đoan chống tư bản, và các mong muốn có được ảnh hưởng ở các nước mới độc lập, đặc biệt là tạo điều kiện cho các tập đoàn tư bản đầu tư nên các nhà nước thực dân khi trao trả độc lập thường trao lại chính quyền cho các tổ chức [[chủ nghĩa dân tộc|dân tộc chủ nghĩa]] ôn hòa, hay các [[chính phủ bù nhìn|chính quyền bù nhìn]] tồn tại từ trước, hoặc các lực lượng chống cộng sản, hay chống tư tưởng [[tôn giáo]] cực đoan cho dù họ có vai trò trong đấu tranh giải phóng dân tộc hay không. Nhiều nơi, phong trào phi thực dân hóa chỉ được tiến hành từng bước theo mô thức như tự quản đến tự trị rồi độc lập. Một loạt các chế độ [[độc tài]] dựng lên dưới sự ủng hộ hay dung dưỡng của chủ nghĩa tư bản phương Tây ở nhiều nước mới thoát ra khỏi thực dân (tiêu biểu ở [[Mỹ Latinh]] và [[châu Phi]]), hoặc sự duy trì của các chế độ mang màu sắc phong kiến, hay quân chủ (ở những nước mà ảnh hưởng tôn giáo lớn, hay các chế độ quân chủ được một bộ phận khá lớn dân tin tưởng như ở [[Trung Đông]]), được xem là thành trì bảo vệ chủ nghĩa tư bản chống lại chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay tôn giáo cực đoan. Chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi có sự dung dưỡng của chủ nghĩa tư bản phương Tây, là tiền đồn chống lại các tư tưởng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản phát triển ở miền nam châu Phi, bao gồm cả ở Nam Phi. Tuy phản đối các chế độ độc tài ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha một thời nhưng do các chính sách chống cộng sản nên các nhà nước này vẫn được sự chấp nhận phần nào ở phương Tây. Các quá trình dân chủ hóa ở các quốc gia này hết sức chậm chạp, ở một số nước đã nổ ra các cuộc [[cách mạng]] hoặc bạo động, đasố phầnkhác thì khá ổn định nhờ vào các chính sách tư bản tạo một nền kinh tế tương đối "dễ thở" hơn so với thời thuộc địa cho dù vẫn tồn tại khá nhiều bất công.{{fact}}
 
Do bản chất chủ nghĩa tư bản rất [[thực dụng]] nên họ thường thỏa hiệp với các chính quyền phong kiến hay nửa phong kiến, các chế độ quân sự hay dân tộc chủ nghĩa phi dân chủ, hay các chính quyền của đảng cộng sản, hay các đảng mang màu sắc xã hội chủ nghĩa khác lãnh đạo, miễn là có lợi cho họ đầu tư. Các lý thuyết tự do, dân chủ thường bị những trùm [[tài phiệt]] của chủ nghĩa tư bản xaobỏ lãng.qua Tuynếu nhiênđiều trongnày ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Trong một vài thập kỷ gần đây, vì các mục đích chính trị và kinh tế, những người theo đuổi chủ nghĩa tư bản ở phương Tây quanthường tâmhay nhiềucan hơnthiệp đếnvào các vấn đề tự do, dân chủ hay nhân quyền ở các nước kém phát triển, bao gồm cả các nước đồng minh của họ trong [[chiến tranh Lạnh|chiến tranh lạnh]] chống chủ nghĩa cộng sản trước đây.{{fact}}
 
Ngược các lực lượng cánh hữu thường tập trung vào các vấn đề [[quyền tự do|tự do]], dân chủ, nhân quyền, hay quyền lợi dân tộc, mà ít coi trọng đến giải quyết các vấn đề về xã hội như phân hóa giàu - nghèo, tình trạng thất nghiệp, hay các vấn đề xã hội khác như giáo dục, y tế, an sinh xã hội, các lực lượng cánh tả các nước tư bản chú ý nhiều hơn đến các khía cạnh này, đấu tranh nhiều hơn cho các lĩnh vực bình đẳng giới hay bảo vệ môi trường,... và thường ít chú ý hơn đến các vấn đề về chống [[độc tài]] và vi phạm quyền cá nhân, mặc dù tôn trọng dân chủ đại nghị. Tuy nhiên sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, xuất hiện các tư tưởng thiên hữu nhiều hơn trong các lực lượng cánh tả, họ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề về [[dân chủ]] và [[nhân quyền]], và chú trọng nhiều hơn vào các vấn đề kinh tế hơn là bình đẳng.{{fact}}