Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Nguyên Vỹ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: tháng 8]], 19 → tháng 8 năm [[19 using AWB
n clean up, replaced: → (2) using AWB
Dòng 15:
| tham chiến= '''[[Chiến tranh Việt Nam]]
| khen thưởng= '''[[Bảo quốc Huân chương|B.quốc H.chương đê III]]<ref>Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng (ân thưởng)</ref>
| công việc khác= '''[[Quận (Việt Nam)|Quận trưởng]]
}}
 
Dòng 24:
 
===Quân đội Quốc gia Việt Nam===
Đầu năm 1951, ông tình nguyện nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/204.567. Theo học khóa 2 Lê Lợi tại trường Võ bị Địa phương Trung Việt ở Huế,<ref>Trường Võ bị Địa phương Trung Việt còn gọi là trường Sĩ quan Đập Đá được mở trên vị trí và cơ sở trước đó là của trường Võ bị Quốc gia Huế, thường gọi là "Võ bị Huế":<br/>- Trường Võ bị Huế từ cuối năm 1948 đến giữa năm 1950 đã đào tạo được 2 khóa sĩ quan là khóa 1 Phan Bội Châu và khóa 2 Quang Trung, sau đó chuyển về Đà Lạt đổi tên là trường Võ bị Liên quân Đà Lạt tiếp tục đào tạo sĩ quan khóa 3 Trần Hưng Đạo.<br/>- Sau khi tiếp quản cơ sở, trường Võ bị Địa phương Trung Việt, tiếp tục đào tạo được thêm 3 khóa sĩ quan nữa là: Khóa 1, khai giảng ngày 1 tháng 8 năm 1950. Khóa 2 nhập học ngày 1 tháng 2 năm 1951, đến ngày 1 tháng 10 cùng năm tổ chức lễ khai giảng cho khóa 3. Khóa sinh tốt nghiệp ở 3 khóa này đều mang cấp bậc Chuẩn úy. Sĩ quan xuất thân từ Võ bị Địa phương Trung Việt, sau này có 3 người được lên cấp tướng, ngoài tướng Lê Nguyên Vỹ, còn 2 người nữa là:<br/>- Thiếu tướng [[Võ Văn Cảnh]] (SN 1922, Khóa 3, chức vụ sau cùng: Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Tổng Giám đốc Nhân dân Tự vệ)<br/>- Chuẩn tướng [[Phan Hòa Hiệp]] (SN 1927, Khóa 1, sau cùng: Tổng trưởng Thông tin và Chiêu hồi)</ref> khai giảng ngày 1 tháng 2 năm 1951. Ngày 1 tháng 10 cùng năm mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]] hiện dịch. Ra trường, ông được chuyển về phục vụ trong Tiểu đoàn 19 Việt Nam thuộc Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp với chức vụ Trung đội trưởng do Đại úy [[Đỗ Cao Trí]] làm Tiểu đoàn trưởng. Tháng 4 năm 1952, ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] tại nhiệm. Đầu năm 1953, ông được cử theo học khóa 1 Biệt kích tại Trung tâm Huấn luyện Biệt động đội tại Vạt Cháy (Bãi Cháy), Hòn Gai, Quảng Yên. Mãn khóa trở về đơn vị gốc (Tiểu đoàn 19) ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử giữ chức vụ Đại đội trưởng. Ngày 1 tháng 3 năm 1954, Tiểu đoàn 19 Việt Nam giải tán dùng làm nòng cốt để thành lập Tiểu đoàn 6 Nhảy dù. Cùng năm, ông được tuyển chọn đi du học khóa huấn luyện viên Nhảy dù tại Pau, Pháp.
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===