Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phạm Văn Đổng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: tháng 10]], 19 → tháng 10 năm [[19 using AWB
n clean up, replaced: → (2) using AWB
Dòng 17:
}}
 
'''Phạm Văn Đỗng''' (1919 - 2008), nguyên là một cựu tướng lĩnh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Thiếu tướng]]. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Quân đội Pháp mở ra ở vùng Đông bắc Bắc Kỳ (nơi có nhiều sắc dân thiểu số) với mục đích đào tạo người Việt trở thành sĩ quan để phục trong Quân đội Thuộc địa. Mặc dù nguyên lai binh nghiệp của ông là Bộ binh. Tuy nhiên, trong thời gian tại ngũ ông cũng được đảm nhiệm những chức vụ ở các lĩnh vực khác nhau. Ông cũng là một chính khách, từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Cựu chiến binh trong Nội các của Thủ tướng [[Trần Thiện Khiêm]] (1969-1974).
 
==Tiểu sử và Binh nghiệp==
Dòng 35:
Năm 1950, ông được thăng cấp [[Đại úy]]. Sau thắng lợi của Quân đội Liên hiệp Pháp trước quân đối phương tại mặt trận Vĩnh Yên, ông được bổ nhiệm chức Chỉ huy trưởng Phân khu Nam đóng tại [[Nam Định]]. Ngày 8 tháng 12 năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam chính thức thành lập, ông được chuyển sang phục vụ cơ cấu mới này.
 
Đầu năm 1952, ông được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 55 Việt Nam (55e BVN). Cuối tháng 10 cùng năm, đơn vị ông được điều động lên Tây Bắc đóng quân tại Yên Châu. Tuy nhiên, trước sức tấn công áp đảo của đối phương, đơn vị ông bị thiệt hại nặng, phải rút về căn cứ Nà Sản để bổ sung. Đêm 30 tháng 11 rạng ngày 1 tháng 12 cuối năm này, quân đối phương ồ ạt tấn công cứ điểm Nà Sản. Tuy nhiên, quân Liên hiệp Pháp dưới sự chỉ huy của Đại tá Jean Gilles kháng cự mạnh mẽ. Ông đã nhiều lần yêu cầu Pháo binh chi viện, đánh thiệt hại nặng chiến thuật "biển người" của đối phương. Không hoàn thành được mục tiêu, quân đối phương rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa.
 
Với chiến tích này, ông được thăng cấp [[Thiếu tá] làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Việt Nam<ref>Tiểu đoàn 2 Việt Nam được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949 tại Thái Bình.</ref> Sau đó ông được giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Liên đoàn Lưu động số 2 (2e Groupe Mobile - 2e GM), hoạt động chủ yếu ở vùng Ninh Bình. Ngày 1 tháng 9 năm 1953, ông được thăng cấp [[Trung tá]], Chỉ huy trưởng Phân khu Bùi Chu kiêm Chỉ huy trưởng Liên Tiểu đoàn Khinh quân và Liên đội Trọng pháo Bắc Việt.<ref>Thời điểm này Liên Tiểu đoàn Khinh quân có 19 Tiểu đoàn và Liên đội Trọng pháo có 3 Đại đội, hoạt động trên địa bàn Phân khu Bùi Chu gồm có 7 tỉnh.</ref> Mặc dù là một tín đồ Phật giáo, ông rất được lòng các Giám mục, Linh mục tại vùng có nhiều giáo dân Công giáo này.