[[Tập tin:Tonkin Langson N°33 Vi-van-Dinh fils (...)Salles André btv1b53013140k.jpg|thumb|Vi Văn Định tại nhà lúc 17 tuổi]]
Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc gốc Việt-Tày ở Lạng Sơn, là con trai Hiệp biện đại học sĩ Tràng Phái nam Vi Văn Lý (1830-1905). Cao tổ là cụ Đinh Mật [[Vi Kim Thăng]] (quê ở Nghệ An) theo Lê Lợi khởi nghĩa đánh giặc Minh, bình giặc xong, khi luận công, ông được liệt vào hàng khai quốc công thần. Năm 1431, Vua Lê Thái Tổ cử con trai ông là Đô Đốc Đồng Tri Hoàn quận công Vi Phúc Hân lên trấn giữ biên giới phía Bắc. Triều đình cho lấy châu Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn làm quê quán, đời đời làm phiên thần trấn thủ biên thùy không cho về quê nữa, nên tổ tiên ông được “Tày hoá”, “tập tước thổ ti” và nhiều người được phong làm Quận công trong nhiều thế hệ từ đời nhà Trần đến triều Nguyễn (1802-1945).
Ông có một em trai là ông Vi Văn Lâm, từng làm Bố chánh tỉnh Thái Nguyên.
Khởi đầu hoạn lộ, ông được cử làm Tri châu Lộc Bình (1901). Năm 1909, ông được thăng tri phủ Tràng Khanh. Năm 1913, Thương tá tỉnh Lạng Sơn, rồi năm 1913-1918 làm Án sát tỉnh Cao Bằng. Từ năm 1921 – 1922, ông làm Tuần phủ tỉnh Cao Bằng cho đến khi chuyển về giữ chức Tuần phủ tỉnh Phúc Yên (1923-1927), Hưng Yên (1927-1929). Năm 1929, ông được thăng Tổng đốc tỉnh Thái Bình (1929-1937), đến năm 1937, ông chuyển về làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông (1937-1941) tháng 8-1941, ông được phong tước An Phước Nam (Nam tước), hàm Thái tử Thiếu Bảo. Năm 1942 do mâu thuẫn với quan chức người Pháp, ông viết đơn xin về hưu. Ông tham gia Hội Khai trí Tiến đức với chức danh trưởng ban vận động hội viên tán trợ.
Suốt hoạn lộ của mình, ông được Nam triều và chính phủ Pháp Việt Miên tặng nhiều huân chương cao quý, như: Đại nam long tinh, Kim khánh đệ nhất hạng, Kim tiền, Officier de Ordre Royol du Combodge, Grand Officier de la Légion d’Honneuer...
|