Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triết học kinh viện”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
'''Sĩ lâm triết học'''<ref name="de Ridder-Symoens 1992, 47–55">de Ridder-Symoens 1992, pp. 47–55</ref> ({{lang-la|Scholastica}}, {{lang-de|Scholastik}}, {{lang-fr|Scolastique}}, {{lang-ru|''Схоластика''}}, {{zh|士林哲學}}) phát xuất từ '''σχολαστικός''' trong tiếng [[Hi Lạp]] cổ đại là '''Scholasticus''', có nghĩa "nhàn hạ", "cống hiến thì gian nhàn hạ của mình cho khoa học", [[Latin]] hóa '''scholasticus''' "thuộc về trường học, đại học".
==Lịch sử==
Triết học sĩ lâm không đơn thuần là triết lý hay một môn thần học mà là phương pháp giảng học, vì nó nhấn mạnh về lý luận [[biện chứng]] để mở rộng kiến thức bằng cách [[suy luận]] và giải quyết xung đột tư tưởng. Suy nghĩ kinh viện cũng được biết đến với phân tích khái niệm nghiêm ngặt và việc rút ra một cách cẩn thận các khác biệt. Trong lớp học và trong viết văn, nó thường có dạng rõ ràng của một cuộc tranh luận; một chủ đề được rút ra từ truyền thống được đề cập trong hình thức của một câu hỏi, những câu trả lời đối lập được đưa ra, một đề nghị phản lại được tranh luận và các lập luận đối ngược bị bác bỏ. Bởi vì sự nhấn mạnh vào phương pháp biện chứng nghiêm ngặt, triết học sĩ lâm cuối cùng đã được áp dụng cho nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Nó vừa là phương pháp vừa là một hệ thống hướng tới việc hòa trộn [[thần học Ki-tô giáo]] của các vị [[Giáo phụ]] với [[triết học Hy Lạp]] của [[Aristoteles|Aristotle]].

Triết học kinh việnlâm phát triển tiên khởi đầu từ các tu viện Kitô tới các đại học đầu tiên ở[[Âu châu Âu]].<ref>See Steven P. Marone, "Medieval philosophy in context" in A. S. McGrade, ed., ''The Cambridge Companion to Medieval Philosophy'' (Cambridge: Cambridge University Press, 2003). On the difference between scholastic and medieval monastic postures towards learning, see Jean Leclercq, ''The Love of Learning and the Desire for God'' (New York: Fordham University Press, 1970) esp. 89; 238ff.</ref> Các tổ chức đầu tiên ở phương Tây được coi là trường đại học được thành lập tại [[Ý]], [[Pháp]], [[Tây Ban Nha]] và [[Anh]] vào cuối thế kỷ 11 và 12 cho các nghiên cứu về [[Giáo dục các môn khai phóng]], [[pháp luật]], [[y học]], và [[thần học]],<ref name="de Ridder-Symoens 1992, 47–55">de Ridder-Symoens 1992, pp. 47–55</ref> như [[Schola Medica Salernitana]], trường [[Đại học Bologna]], và [[Đại học Paris]]. Khá khó để xác định ngày mà tại đó chúng đã trở thành các trường đại học thực sự. Là một chương trình, triết học sĩ lâm bắt đầu như là một nỗ lực hài hòa trên phần của các nhà tư tưởng Kitô giáo trung đại, để hài hòa các cơ quan khác nhau của truyền thống riêng của họ, và để hòa giải thần học Kitô giáo với triết học cổ đại, đặc biệt hơn cả là [[Aristotle]] và phái [[Tân Platon]]<ref>Particularly through Pseudo-Dionysius, Augustine, and Boethius, and through the influence of Plotinus and Proclus on Muslim philosophers. In the case of Aquinas, for instance, see Jan Aertsen, "Aquinas' philosophy in its historical setting" in ''The Cambridge Companion to Aquinas'', ed. Norman Kretzmann and Eleonore Stump (Cambridge: Cambridge University Press, 1993). Jean Leclerq, ''The Love of Learning and the Desire for God'' (New York: Fordham University Press, 1970).</ref>.
<center>
{|
|-
 
|valign="top"|
Early Scholasticism<br>High Scholasticism
|valign="top"|
Hàng 15 ⟶ 20:
Thomistic Scholasticism<br>Analytical Scholasticism
|}
</center>
[[Peter Abelard]], [[Albertus Magnus]], [[Duns Scotus]], [[William xứ Ockham]], [[Bonaventure]], và nổi bật hơn cả là [[Thomas Aquinas]] với [[Summa Theologiae]] là một hợp đề đầy tham vọng kết hợp triết học Hy Lạp và giáo lý Ki-tô giáo. Vào giai đoạn [[Phục Hưng]], các phương pháp suy diễn và [[tiên nghiệm]] của triết học sĩ lâm bị thay thế dần bởi [[lập luận quy nạp]] của khoa học hiện đại, trong khi cơ sở lý thuyết thần học chịu sự thách thức của [[chủ nghĩa nhân văn]].
==Tư tưởng==