Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triều Tiên Thái Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 23:
| royal anthem =
| miếu hiệu = [[Thái Tông]] (太宗)
| niên hiệu = Kiến Văn (建文); Vĩnh Lạc (永)<br/>Chuyên dụng niên hiệu [[nhà Minh]]
| father =[[Triều Tiên Thái Tổ]]
| mother =[[Thần Ý Vương hậu]]
Dòng 54:
|mrja=
}}
'''Triều Tiên Thái Tông''' ([[chữ Hán]]: 朝太宗; [[Hangul]]: 조선 태종; [[13 tháng 6]], [[1367]] – [[10 tháng 5]], [[1422]]), còn gọi là '''Triều Tiên Thái Tông Cung Định đại vương''' (朝太宗恭定大王) hay '''Triều Tiên Cung Định vương''' (朝鮮恭定王), là vị [[quốc vương]] thứ ba của [[nhà Triều Tiên]], cai trị từ năm [[1400]] - [[1418]], tổng 18 năm, trở thành [[Thái thượng vương]] từ năm 1418 cho đến khi qua đời là khoảng 4 năm.
 
Trong lịch sử HÀn Quốc, Thái Tông đại vương được xem là một vị quốc vương giỏi, đã có công xóa bỏ những đặc quyền của bọn quan lại cao cấp trong chính quyền, đồng thời chia lại [[ruộng lúa|ruộng]] đất cho dân cày, củng cố vương quyền cho triều đại, khiến triều đại Triều Tiên càng được vững chắc.
 
==Tiểu sử==
Thái Tông đại vương có húy '''Lý Phương Viễn''' (李芳遠), tự '''Di Đức''' (德), ông là con thứ năm của [[Triều Tiên Thái Tổ]], em trai cùng mẹ với [[Triều Tiên Định Tông]]. Ông sinh vào ngày [[13 tháng 6]], năm [[1367]] tại phủ đệ của cha ông ở [[Hamhung|Hàm Hưng]], dưới triều đại của [[Cao Ly Cung Mẫn vương]]. Khi cha ông Thái Tổ Lý Thành Quế đang cất binh, phải di trú luôn, ông phụ trách bảo vệ 2 người mẹ là Hàn phu nhân và Khương phu nhân; cùng 2 em trai [[Lý Phương Phiền]] (李芳蕃), [[Lý Phương Thạc]] (李芳) cùng 3 em gái khác.
 
Năm [[1392]], Thái Tổ Lý Thành Quế tức vị, ông được cha mình phong tước hiệu '''Tĩnh An quân''' (靖安君). Trong thời gian này, ông hay đại diện đi làm sứ giả qua [[nhà Minh]], và tại [[Nam Kinh]] ông đã từng gặp qua [[Minh Thành Tổ]] Chu Đệ, khi ấy đang là ''Yên Vương''.
Dòng 65:
Năm [[1398]], xảy ra [[Mậu Dần tĩnh xã]] (戊寅靖社), Tĩnh An quân Lý Phương Viễn giết chết [[Trịnh Đạo Truyền]] (鄭道傳), bức ép Thái Tổ Lý Thành Quế nhường ngôi, trở thành [[Thái thượng vương]]. Ông chưa vội lên ngôi, bèn đưa anh trai là Vĩnh An quân Lý Phương Quả lên kế vị, tức [[Triều Tiên Định Tông]]. Tự bản thân ông được phong thành '''Tĩnh An công''' (靖安公).
 
Hai năm sau, Tĩnh An công mưu sự chánh biến lần 2, gọi là [[Canh Thần tĩnh xã]] (变再次发). Lần này, Định Tông phải thoái vị, Tĩnh An công lên ngôi. Thái thượng vương Lý Thành Quế trở về nơi ở cũ tại Hàm Hưng, và qua đời ở đó vào năm [[1408]]. Định Tông cũng qua đời vào năm [[1419]].
 
Năm [[1401]], ngày [[28 tháng 11]], Lý Phương Viễn chuẩn bị lên ngôi, gửi thư sang [[Minh Huệ Tông]] xin sắc phong làm ''Triều Tiên quốc vương'' (朝鲜国鮮國王). Nhà Minh phái sứ giả sang, tuyên đọc ý chỉ của Hoàng đế nhà Minh, và Lý Phương Viễn đã tiếp nhận. Về sau, [[Minh Thành Tổ]] kế vị, cũng chính thức công nhận ngôi vị của Triều Tiên quốc vương, xem nhà Triều Tiên như 1 chư hầu thân cận.
 
Năm [[1418]], ngày [[9 tháng 9]], ông nhường ngôi về làm [[Thái thượng vương]], con trai của ông là '''Lý Tạo''' (李祹) lên ngôi, tức là [[Triều Tiên Thế Tông]]. Ông ở ngôi Thái thượng vương được 4 năm thì thăng hà vào ngày [[10 tháng 5]] ở Tân cung, phường [[Toàn Đạt]] tại [[Hán Thành]]; hưởng thọ 56 tuổi. Ông được an táng tại [[Hiến Lăng]] (陵).
 
Thế Tông đại vương truy [[miếu hiệu]] là [[Thái Tông]] (太宗), [[thụy hiệu]] là '''Cung Định Thánh Đức Thần Công Kiến Thiên Thể Cực Đại Chính Khải Hữu Văn Vũ Duệ Triết Thành Liệt Quang Hiếu Đại vương''' (恭定聖德神功建天體極大正啓佑文武叡哲成烈光孝大王). Trong đó, chữ '''Cung Định''' (恭定) là do [[nhà Minh]] ban tặng, về sau các vị quốc vương nhà Triều Tiên đều dùng 2 chữ thụy của nhà Minh dùng cho tên thụy.