Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phân đại Đệ Tam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Thuật ngữ: sửa chính tả
Dòng 1:
'''Kỷ Đệ Tam''' ('''''Tertiary''''') đã từng là một đơn vị chính trong [[niên đại địa chất]], kéo dài từ khi kết thúc [[kỷ Creta]], vào khoảng 65 Ma (Ma: ''Mega annum'', triệu năm) trước, tới khi bắt đầu [[kỷ Đệ tứTứ]], vào khoảng 1,8 Ma. Việc sử dụng tên gọi này đã từng là rộng khắp và vẫn còn được dùng đến ngày nay (2007); nhưng ''[[Ủy ban quốc tế về địa tầng học]]'' (ICS) đã không còn coi nó là một phần của [http://www.stratigraphy.org/gssp.htm danh pháp địa tầng học chính thức] mà gần như đã coi nó như là cấp phân giới (sub-erathem) gọi là '''Phân giới Đệ Tam''' hay tương ứng với phân giới này là '''phân đại Đệ Tam'''. Thay vì thế, các kỷ như [[kỷ Paleogen]] và [[kỷ Neogen]] đã được khuyến nghị nên dùng như là các đơn vị phân chia ở cấp thứ nhất của [[đại Tân sinh]].
 
[[ICS]] đã đề nghị rằng kỷ Đệ Tam cũ nên được coi là một phân đại/phân giới và chứa một phần của [[kỷ Neogen]], với sự kết thúc của nó vào khoảng 2,588 Ma (triệu năm), trùng với khi bắt đầu [[tầng Gelasia]]. Tuy nhiên, ''[[Liên đoàn Quốc tế về Nghiên cứu Kỷ Đệ tứ]]'' (INQUA) lại đưa ra đề nghị ngược lại cho rằng [[kỷ Neogen]] và [[thế Pliocen]] kết thúc tại thời điểm khoảng 2,588 Ma, tầng Gelasia cần được chuyển sang [[thế Pleistocen]] bằng việc viện dẫn các thay đổi cơ bản trong khí hậu, đại dương và vùng sinh vật của Trái Đất đã diễn ra vào thời điểm 2,588 Ma và sự tương ứng của nó với ''[[đảo ngược Gauss-Matuyama|ranh giới địa từ học Gauss-Matuyama]]''.
Dòng 9:
Trong sử dụng thông thường, kỷ Đệ Tam bao gồm 5 thế địa chất – là các thế [[thế Paleocen|Paleocen]], [[thế Eocen|Eocen]], [[thế Oligocen|Oligocen]], [[thế Miocen|Miocen]] và [[thế Pliocen|Pliocen]].
 
Kỷ Đệ Tam bao gồm gần chính xác như khoảng thời gian nằm giữa thời điểm tiêu vong của các loài [[khủng long]] và khi bắt đầu các [[thời kỳ băng hà]] gần đây nhất. Vào đầu kỷ này các loài [[lớp Thú|động vật có vú]] đã thay thế các loài [[động vật bò sát|bò sát]] trong vai trò của các [[động vật có xương sống]] thống lĩnh các môi trường sinh sống. Mỗi thế của kỷ Đệ tứTứ được đánh dấu bằng các phát triển nổi bật của các động vật có vú. Các loài động vật dạng người và có quan hệ họ hàng với [[loài người|người]] sớm nhất đã được công nhận là ''[[Proconsul (chi)|Proconsul]]'' và ''[[Chi Vượn người phương nam|Australopithecus]]'' cũng đã xuất hiện. Các dạng hiện đại của [[chim]], bò sát, [[động vật lưỡng cư]], [[cá]] và [[động vật không xương sống]] hoặc là đã rất đông đảo vào đầu kỷ hoặc đã xuất hiện sớm trong lịch sử của chúng. Các họ hiện đại của [[thực vật có hoa]] cũng đã [[tiến hóa]]. [[Động vật không xương sống]] trong đại dương và các [[động vật có xương sống]] không phải thú chỉ có các tiến hóa nhỏ.
 
Các [[trôi dạt lục địa]] là nhỏ bé. Các phần của siêu lục địa [[Gondwana]] cuối cùng đã tách rời nhau hoàn toàn và [[Ấn Độ]] đã va chạm với [[mảng Á-Âu|mảng kiến tạo Á-Âu]]. [[Nam Mỹ]] cũng đã nối với [[Bắc Mỹ]] vào cuối kỷ Đệ Tam. [[Châu Nam Cực]] – đã tách rời từ trước đó – cũng trôi dạt về vị trí như hiện nay của nó tại [[Nam Cực|Nam cực]]. Hoạt động phun trào [[núi lửa]] rộng khắp là thường thấy. [[Khí hậu]] trong kỷ Đệ Tam lạnh đi một cách chậm chạp, bắt đầu từ [[thế Paleocen]] với các khoảng nhiệt độ trên khắp thế giới chủ yếu mang tính chất nhiệt đới-ôn đới và kết thúc bằng các sự kiện [[sông băng|băng hà]] rộng khắp vào cuối kỷ.