Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Hồng hoàng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Phát sinh chủng loài: clean up, replaced: → (15) using AWB
n →‎Phát sinh chủng loài: replaced: 2 nhánh → hai nhánh using AWB
Dòng 36:
Cây phát sinh chủng loài của họ Hồng hoàng vẽ dưới đây lấy theo Gonzalez ''et al.'' (2013a)<ref name=Gonzalez2013a>Gonzalez J. C. T., B. C. Sheldon, N. J. Collar, J. A. Tobias (2013), A comprehensive molecular phylogeny for the hornbills (Aves: Bucerotidae), ''Mol. Phylogenet. Evol.'' 67, 468-483.</ref>. Họ đã phân tích tất cả các loài hồng hoàng với việc sử dụng ADN của cả hạt nhân lẫn ti thể. Ở cấp độ chi, các kết quả của họ khớp với kết quả của Viseshakul ''et al.'' (2011)<ref name= Viseshakul2011>Viseshakul N., W. Charoennitikul, S. Kitamura, A. Kemp, S. Thong-Aree, Y. Surapunpitak, P. Poonswad, M. Ponglikitmongkol (2011), A phylogeny of frugivorous hornbills linked to the evolution of Indian plants within Asian rainforests, ''J. Evol. Biol.'' 24, 1533-1545.</ref>, một phân tích chỉ sử dụng gen cytochrome-b. Viseshakul ''et al.'' phát hiện ra rằng phần lớn sự đa dạng của họ Hồng hoàng thực sự là cổ xưa<ref name= Viseshakul2011 />. Các chi dường như đã tồn tại như là các dòng dõi riêng biệt trong trên 30 triệu năm. Điều này gây ra một số vấn đề đối với các tác giả này trong việc dung giải cây phát sinh chủng loài của họ Hồng hoàng. Gonzalez ''et al.'' lại tìm thấy kiểu phân bố hơi khác với độ hỗ trợ tốt hơn<ref name=Gonzalez2013a />. Rất có thể là việc xem xét các gen bổ sung sẽ dẫn tới một vài điều chỉnh tiếp theo. Cụ thể, người ta nghi ngờ rằng ''Berenicornis'' (niệc đầu trắng) vẫn chưa được đặt đúng chỗ.
 
Hübner ''et al.'' (2003)<ref name=Hubner2003>Hübner V. S. M., Prinzinger R., Wink M. (2003), Neue Erkenntnisse zur Taxonomie der Hornvöogel (Aves: Bucerotiformes) und ihre Bedeutung für die Zucht in Menschenobhut, ''Zool. Garten'' 73, 396-401.</ref> và Gonzalez ''et al.'' (2013a) <ref name=Gonzalez2013a /> tách chi ''Tockus'' ra thành 2hai nhánh là ''Lophoceros'' và ''Tockus'' (''sensu stricto''). Bên cạnh các khác biệt về thanh âm, sự chia tách giữa các nhánh này là rất sâu. Viseshakul ''et al.'' (2011) ước tính sự chia tách này khoảng 45 triệu năm trước<ref name= Viseshakul2011 />. Lưu ý rằng tên gọi ''Lophoceros'' <small>(Ehrenberg, 1833)</small> có ưu thế hơn so với tên gọi ''Rhynchaceros'' <small>(Gloger, 1842)</small> như gợi ý của Hübner ''et al.'' (2003) và Gonzalez ''et al.'' (2013a) <ref name=Gonzalez2013a /><ref name=Hubner2003 />. (Sau đó họ đã điều chỉnh điều này trong Gonzalez ''et al.'' 2013b.)<ref name=Gonzalez2013b>Gonzalez J. C. T., B. C. Sheldon, N. J. Collar, J. A. Tobias (2013b), Corrigendum to "A comprehensive molecular phylogeny for the hornbills (Aves: Bucerotidae)", ''Mol. Phylogenet. Evol.'' 67, 715.</ref>
 
Có hai điều ngạc nhiên ở cấp độ loài trong Gonzalez ''et al.'' (2013)<ref name=Gonzalez2013a />. Mỏ sừng lùn đen (''[[Horizocerus hartlaubi|Tockus hartlaubi]]'') lại không thuộc về chi ''Tockus''. Tại đây nó được xếp như là chị-em với ''Tropicranus'' trong chi đơn loài ''Horizocerus'' <small>Oberholser, 1899</small>. Mỏ sừng Sulawesi (''[[Rhabdotorrhinus exarhatus|Penelopides exarhatus]]'') cũng không thuộc về ''Penelopides''. Thay vì thế, nó gia nhập cùng nhóm với niệc nhăn (''[[Rhabdotorrhinus corrugatus|Aceros corrugatus]]''), niệc Walden (''[[Rhabdotorrhinus waldeni|Aceros waldeni]]'') và niệc nhăn Minadao (''[[Rhabdotorrhinus leucocephalus|Aceros leucocephalus]]''). Viseshakul ''et al.'' (2011) trước đó đã chỉ ra rằng chúng không thuộc về chi ''Aceros''<ref name= Viseshakul2011 />, và có lúc người ta tách chúng ra để xếp vào chi ''Cranobrontes'' <small>Riley, 1921</small>, với loài điển hình là ''C. leucocephalus''. Nhưng do ''Penelopides exarhatus'' gia nhập nhóm này nên chi chứa chúng phải có tên khoa học là ''Rhabdotorrhinus'' <small>Meyer và Wiglesworth, 1898</small>, với loài điển hình là ''R. exarhatus'', do tên gọi này có độ ưu tiên cao hơn ''Cranobrontes''.