Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đội Cấn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 13:
Đêm 30 rạng 31 tháng 8 năm 1917, [[Khởi nghĩa Thái Nguyên]] bùng nổ. Các binh lính người Việt đã giết chết viên giám binh Pháp tên là Noël, phá nhà tù Thái Nguyên, giải phóng 230 tù nhân. Đội Cấn được cử làm Tư lệnh trưởng, Lương Ngọc Quyến làm Quân sư. Nghĩa quân sau đó triệu tập dân chúng tại Thái Nguyên, tuyên bố Thái Nguyên độc lập, đặt quốc hiệu là [[Đại Hùng Đế quốc]], ra Tuyên ngôn và Lời kêu gọi "''Chúng ta hãy mau chóng lợi dụng cơ hội ngàn năm có một, cơ hội thật hiếm có để rửa nhục, để trả thù''". Số quân khởi nghĩa lên tới hơn 600 người, gồm các binh lính khố xanh, các tù nhân và một số quần chúng, sử dụng quân kỳ màu vàng đề 4 chữ "Nam binh phục quốc", góc trên bên trái lá cờ có năm ngôi sao đỏ (ngũ tinh liên châu).
==Khúc bi tráng Thái Nguyên==
Đội Cấn và các chiến hữu đã làm chủ Thái Nguyên được 5 ngày. Sáng ngày 45 tháng 9 năm 1917, nhà cầm quyền Pháp điều 2 ngàn quân lên [[Thái Nguyên]] đàn áp. Ngay từ trong những phút đầu [[Lương Ngọc Quyến]] bị tử thương do bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu (có tài liệu chép ông tự sát vì bị giam giữ quá lâu nên không thể vận động và không muốn ảnh hưởng đến việc rút quân). Do lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân đành phải rút quân ra ngoài thị xã trong đêm đó, rút về vùng núi [[Tam Đảo]], giáp [[Vĩnh Yên]], xây dựng căn cứ chống giữ.
 
Đội Cấn và nghĩa quân cầm cự được hơn 5 tháng. Ngày 11 tháng 1 năm 1918, trong một cuộc phản kích quân Pháp tấn công lên căn cứ tại [[núi Pháo]], nay thuộc huyện [[Đại Từ]], nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, bản thân Đội Cấn bị thương nặng. Để không rơi vào quân Pháp, ông đã tự bắn vào bụng tự sát.