Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạc Đăng Lượng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 7:
 
== Thân thế và sự nghiệp ==
Mạc Đăng Lượng tự Cát Giang Tử tức Hoàng Đăng Quang sinh năm 1496 quê ở xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là xã [[Nam Tân]], huyện [[Nam Sách]], Trấn [[Hải Dương]]), ông là con cả của cụ Mạc Đăng Trắc và cụ bà Đậu Thị Minh. Ông là cháu 7 đời của [[Mạc Đĩnh Chi]] và có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Mạc.
 
Năm 17 tuổi, ông đỗ tiến sĩ và làm quan tước Quốc Công dưới triều Hậu lê, do chán ghét các phe phái tranh giành ngôi vua, ông cáo quan về ở ẩn nơi sinh ra ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng)
Dòng 16:
Tuyến 1: Phủ Anh sơn, cả một vùng Tây Bắc giáp động núi Lĩnh sơn, Đông Nam giáp sông Lam ngày nay.
Tuyến 2: Huyện Nam đường, Nam giáp Động núi Lĩnh sơn, Bắc giáp núi Đại Huệ.
, Ngài có công chiêu lập 137 hộ dân tiền thân các dòng họ lớn ở Tổng Đặng sơn (ngày nay thuộc 3 xã Nam Sơn, Bắc Sơn, Đặng Sơn tỉnh Nghệ An)
 
Từ tháng 7 năm 1571 tới năm 1575, dưới sự chỉ huy của Phụ Chính Khiêm vương [[Mạc Kính Điển]], Hoàng Quận Công Mạc Đăng Lượng, Thạch Quận Công [[Nguyễn Quyện]] cùng các tướng nhà Mạc tiến đánh vùng Thanh Nghệ. Trong trận Lèn Hai Vai (Yên Thành), đánh thắng Lai quận công Phan Công Tích. Năm 1576,Nguyễn Quyện cùng Mạc Đăng Lượng đem quân trở ra Ngọc Sơn, Thanh Hóa đóng đồn từ Cầu Quán đến Mạo Lạp, lại cho quân mai phục hai bên đón đường. Đã bắt sống Tấn quận công [[Nguyễn Cảnh Hoan]] trên đường trở ra Yên Trường tại Bông Đồn, Độc Hiệu ngoại Thanh Hóa (Ninh Bình ngày nay).