Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Konstantinos Kanaris”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:12.4102423 using AWB
chính tả
Dòng 58:
Đến đầu năm 1821, tổ chức này đã đủ thực lực để phát động một cuộc cách mạng. Tuyên bố của hội dường như đã gây ngạc nhiên cho Constantine, khi đó đang vắng mặt tại Odessa. Ông vội vã trở lại [[Psara]] và ở đó khi hòn đảo gia nhập cuộc cách mạng vào ngày 10 tháng 4 năm 1821.
 
Hòn đảo đã thành lập đội tàu của riêng nó bao gồm những thuỷ thủ danh tiếng của Psara, vốn nổi danh về kỹ năng hải chiến chống lại [[cướp biển]] nhờ vào những con tàu được trang bị tốt, đủ năng lực cho những cuộc hải chiênchiến sắp tới. Constantine nhanh chóng chứng tỏ sự gan dạ qua việc làm một thuyền trưởng [[tàu hỏa khí]].<ref name=Woodhouse138>Woodhouse, p. 138.</ref>
 
[[Hình:Lytras-nikiforos-pyrpolisi-tourkikis-navarhidas-apo-kanari.jpeg|thumb|left|200px|Chiến công đánh đắm soái hạm của Ottoman tại [[Chios]] bởi Kanaris.]]
 
Tại [[Chios]], vào một đêm không trăng ngày 6 hoặc 7 tháng 6 năm 1822 những lực lượng dưới quyền ông đã đánh đắm soái hạm của Đô đốc Thổ Nasuhzade Ali Pasha (hay Kara-Ali Pasha) nhămnhằm trả thù cho cuộc [[thảm sát Chios]]. Khi đô đốc đang tổ chức lễ ([[Bayram (Thổ Nhĩ Kỳ)|Bayram]]), do đó Kanaris và người của ông tận dụng thời cơ phóng hỏa con tàu kế cận mà không bị phát hiện. Khi kho thuốc súng của soái hạm bị bắt lửa, tất cả người trên tàu đều bị chết ngay lập tức. Thương vong của Ottoman bao gồm 2000 người, bao gồm thủy thủ và các sĩ quan hải quân, trong đó có cả Kara-Ali.
 
Trong cùng năm đó, ông đã chỉ huy thành công một cuộc tấn công khác vào hạm đội Thổ tại [[Tenedos]] tháng 11 năm 1822. {{refnec|He was famously said to have encouraged himself by murmuring "''Konstantí, you are going to die''" every time he was approaching a Turkish warship on the fire boat he was about to detonate.|date=January 2017}}
 
[[Tập tin:Kanaris_Musket.jpg|thumb|[[Súng Nock|súng hoả mai bảy nòng]] của Kanaris.]]
 
Hạm đội Thổ [[Phá hủy Psara|chiếm được Psara]] vào ngày 21 tháng 6 năm 1824. Dân chúng tại đây buộc phải bỏ chạy lánh nạn, trong số đó có cả Kanaris, nhằm tránh bị bắt làm nô lệ hoặc bị tàn sát.
 
Sau khi hòn đảo quê nhà bị tàn phá, Kanaris tiếp tục chỉ huy người của mình tấn công người Thổ. Ông tham gia vào các cuộc hải chiến ở Dodecanese vào tháng 8 năm 1824.
 
Vào tháng 8 năm 1825, Kanaris chỉ huy [[Hi Lạp đột kích Alexandria (1825)|cuộc đột kích vào Alexandria]] trong một nỗ lực táo bạo nhằm phá hủy Hạm đội Ai Cập bằng tàu cảm tử dùng hỏa binh nhưng không không thành công do gió đã đổi chiều sau khi tàu Hi Lạp cập cảng Alexandria.<ref>Brewer, David ''The Greek War of Independence'', London: Overlook Duckworth, 2011 page 244.</ref>
 
Sau khi kết thúc chiến tranh và Hi Lạp giành được độc lập, Constantine trở thành sĩ quan trong Hải quân Hi Lạp, đạt được cấp bậc Đề Đốc, và sau đó trở thành chính khách nổi tiếng.
Dòng 81:
Constantine Kanaris là một trong vài nhân vật thân tính của [[Ioannis Kapodistrias]] trong Nhà nước đầu tiên của nước Hi Lạp độc lập.<ref name=Woodhouse152>Woodhouse, p. 152.</ref> Kanaris giữ chức vụ bộ trưởng trong nhiều chính phủ khác nhau và sau đó là chức [[Thủ tướng Hi Lạp|Thủ tướng]] trong chính phủ lâm thời, trong khoảng thời gian 11 tháng 3- 11 tháng 4 năm 1844. Ông làm Thủ tướng nhiệm kỳ thứ hai (27 tháng 10 năm 1848{{spaced ndash}}24 tháng 12 năm 1849), và là Bộ trưởng Hải quân trong nội các Mavrokordatos năm 1854.
 
Năm 1862, ông làm một trong vài cựu chiến binh đã giúp cho cuộc cách mạng đẫm máu phế truất Vua [[Otto của Hi Lạp]] và đưa Hoàng tử William của Đan Mạch lên ngai vàng và trở thành Vua [[George I của Hi Lạp]]. Dưới triều Vua George I, ông nắm chức vụ Thủ tướng nhiệm kỳ thứ ba (17 tháng 3{{spaced ndash}}28 tháng 4 năm 1864), nhiệm kỳ thứ tư (7 tháng 4 năm 1864{{spaced ndash}}9 tháng 2 năm 1865) và nhiệm kỳ thứ năm cũng là nhiệm kỳ cuối cùng (7 tháng 6{{spaced ndash}}14 tháng 9 năm 1877).
 
Kanaris mất ngày 2 tháng 9 năm 1877 trong khi đang giữ chức vụ Thủ tướng. Sau khi ông mất chính phủ vẫn cầm quyền đến ngày 14 tháng 9 năm 1877 mà không bổ nhiệm người chokế vị trí của ông. Ông được chôn cất tại [[Nghĩa trang thứ nhất Athens]], nơi phần lớn các vị thủ tướng Hi Lạp và các nhân vật nổi tiếng được an nghỉ. Sau khi mất, ông được vinh danh làm anh hùng quốc gia.
 
Nhằm vinh danh Kanaris, ba tàu [[Hải quân Hi Lạp]] được đặt theo tên ông;
Dòng 96:
*Themistoklis Kanaris, (1819&ndash;1851) -một thành viên của lực lượng viễn chinh đến Ai Cập, bị giết tại đây năm 1851.
*Thrasyvoulos Kanaris, (1820&ndash;1898) - Đề đốc.
*[[Miltiadis Kanaris]], (1822&ndash;1899) - Đề đốc, một nghị viên của Quốc hội Hi Lạp trong nhiều năm, giữ chức Bộ trưỏngtrưởng Hải quân ba lần vào các năm 1864, 1871, và 1878.
*Lykourgos Kanaris, (1826&ndash;1865) - Luật sư
*Maria Kanari, (1828&ndash;1847) - kết hôn với A. Balambano.