Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Nguyên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 82:
Tiền thân của triều Nguyên là đế quốc Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hãn khi lập quốc đã chiếm hữu khu vực Mạc Nam-Mạc Bắc và Lâm Mộc Trung (nay là khu vực [[hồ Baikal]]). Nhờ công lao của Thành Cát Tư Hãn cùng các hãn khác của Mông Cổ, Đế quốc đông đến [[biển Nhật Bản]] và Cao Ly, bắc đến hồ Baikal, phía nam đối đầu với Nam Tống, phía tây đến Đông Âu, [[biển Đen]] và khu vực Lưỡng Hà. Thành Cát Tư Hãn phân cương thổ cho chư vương, Đông đạo chư vương là các em trai của Thành Cát Tư Hãn, đại đa số được phân phong tại khu vực đông bộ và đông bắc Tắc Bắc (phía bắc Vạn Lý Trường Thành), tính phụ thuộc rất cao. Tây đạo chư vương là các con trai của Thành Cát Tư Hãn, tính độc lập rất cao, trong đó phân phong cho con cả là Truật Xích tại khu vực thảo nguyên Khâm Sát ở phía bắc [[biển Aral]] và [[biển Caspi]], sau này Bạt Đô thành lập Hãn quốc Khâm Sát (Kim Trướng) tại đó; phong cho con thứ là Sát Hợp Đài tại lãnh thổ cũ của Tây Liêu ở phía bắc sông [[Syr Darya]], sử xưng Hãn quốc Sát Hợp Đài; con thứ ba là Oa Khoát Đài được phân phong tại lãnh thổ cũ của Nãi Man, sau này Hải Đô lập nên Hãn quốc Oa Khoát Đài; lãnh thổ ban đầu của Mông Cổ thì do ấu tử Đà Lôi quản lý, sau này do Đại hãn trực tiếp quản lý. Lúc này, khu vực Hoa Bắc hay Hán địa, khu vực [[Transoxiana]], khu vực Iran và Thổ Phồn do Đại hãn Mông Cổ trực tiếp quản lý. Năm 1252, sau khi Mông Kha thuộc dòng Đà Lôi tức vị, lệnh cho em là Húc Liệt Ngột tây chinh Tây Á, cuối cùng lập nên Hãn quốc Y Nhi, cùng các Tây đạo chư vương gọi chung là Tứ đại hãn quốc. Mông Kha lệnh cho Hốt Tất Liệt an trị Hán địa, cuối cùng nam diệt Đại Lý. Tuy nhiên, Mông Kha trong lúc tiến công Nam Tống thì từ trần, sau đó Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca tranh vị khiến Tứ đại hãn quốc nối tiếp nhau không chịu sự quản chế của Đại hãn, Đế quốc đến đây phân liệt<ref name="元朝疆域">《中國通史 下冊》〈第二十二章 南宋與外族〉: 第559頁-第573頁.</ref>。
 
Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt thấy Tứ đại hãn quốc không phục tùng mình, do vậy đem khu vực Iran cắt nhượng cho Húc Liệt Ngột (về sau lập Hãn quốc Y Nhi), đem Transoxiana cắt nhượng cho Hãn quốc Sát Hợp Đài để đổi lấy sự ủng hộ của họ. Năm 1279, Nguyên Thế Tổ nam diệt Nam Tống, thống nhất khu vực Trung Quốc, cương vực đương thời là: bắc đến nam bộ [[Siberia]] vượt quá hồ Baikal, nam đến [[biển Đông]], tây nam bao gồm [[Tây Tạng]] và [[Vân Nam]] ngày nay, tây bắc đến đông bộ Tân Cương ngày nay, đông bắc đến [[Ngoại Hưng An Lĩnh]], [[biển Okhotsk]], biển Nhật Bản, bao gồm đảo [[Sakhalin]], tổng diện tích vượt quá 13 triệu km². Từ sau khi tiêu diệt Nam Tống, Nguyên nhiều lần xung đột với các quốc gia Nhật Bản, Miến Điện, Java, tuy nhiên cương thổ về đại thể là ổn định. Năm 1309 trong thời kỳ Nguyên Vũ Tông, Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài trước sau công diệt Hãn quốc Oa Khoát Đài, Nguyên đoạt lất lãnh thổ phía đông của Hãn quốc Oa Khoát Đài, lãnh thổ đạt đến 14 triệu km²<ref name="元史卷五十八地理志"/><ref name="元文宗領土"/>. Các quốc gia phiên thuộc của Nguyên như Cao Ly, Miến Điện, AnĐại NamViệt, Chiêm Thành, Java và Hãn quốc Khâm Sát, Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Y Nhi. Ở phía bắc có các bộ tộc Mạc Bắc, phía nam có các quốc gia Nam Dương, tây có Tứ đại hãn quốc. Trong đó có hai quốc gia phiên thuộc trực thuộc, đó là Cao Ly và [[Triều Pagan|Pagan]] Miến Điện, phân biệt lập ra Chinh Đông hành tỉnh và Miến Trung hành tỉnh.<ref name="元朝疆域"/>。
 
Tại phía tây bắc, năm 1268 Hải Đô của Hãn quốc Oa Khoát Đài có ý đồ đoạt hãn vị nên liên hiệp với Hãn quốc Khâm Sát và Hãn quốc Sát Hợp Đài phản Nguyên, sử xưng Hải Đô chi loạn. Đến năm 1304 trong thời kỳ Nguyên Thành Tông, triều đình Nguyên và ba hãn quốc này đạt thành hòa nghị, họ cùng Hãn quốc Y Nhi thừa nhận địa vị tông chủ của Nguyên, trở thành quốc gia phiên thuộc của Nguyên, song cơ cấu hành chính do Nguyên thiết lập (như hành trung thư tỉnh và tuyên chính viện) không bao gồm các lãnh thổ này. Nguyên Thành Tông ban cho quân chủ của Hãn quốc Y Nhi các ấn tỉ khắc bằng Hán văn như "Chân mệnh hoàng đế hòa thuận vạn di chi bảo", về thực chất là đã thừa nhận tính độc lập của Y Nhi. Đến năm 1309 thuộc thời kỳ Nguyên Vũ Tông, Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài trước sau công diệt Hãn quốc Oa Khoát Đài, trong thời gian Nguyên Văn Tông tại vị cho biên soạn "Kinh thế đại điển", liệt Hãn quốc Khâm Sát, Hãn quốc Sát Hợp Đài, Hãn quốc Y Nhi là quốc gia phiên thuộc của Nguyên.<ref name="元朝疆域"/>