Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiêu Hà”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
[[Tập tin:Xiao he.jpg|nhỏ|240px|Chân dung Tiêu Hà trong "''[[Tam tài đồ hội]]''".]]
'''Tiêu Hà''' ([[chữ Hán]]: 蕭何; ? - [[193 TCN]]) vốnngườimột huyện[[Tể Báitướng|Thừa (ởtướng]] nổi vùngtiếng của [[Giangnhà Hán]], ngày nay),công rất lớn giúp [[TểHán tướng|ThừaCao tướngTổ]] Lưu Bang xây dựng sự nghiệp trong thời kỳ [[nhàChiến tranh Hán-Sở|Hán Sở tranh hùng]]. Công lao của Tiêu Hà cùng với [[Trương Lương]], [[Hàn Tín]] khiến "[[tamngười kiệtđời xếp ông cùng Trương Lương và Hàn Tín thành bộ 3 giúp nhà Hán]]", gọi là ''Hán sơ Tam kiệt'' (汉初三杰). Hậu thế có có câu ''"Phi Tam kiệt tất vô Hán thất"'' (nghĩa là ''không có tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán''). Ôngđể tỏ đóng góptầm nhiềuquan cho thành côngtrọng của Lưubộ Bang trong thời [[Chiến tranh Hán-Sở|Hán Sở tranh hùng]]. Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc3 này đã trở thành một ngạn ngữ của [[Trung Quốc]] (成也蕭何,敗也蕭何, "thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà").
 
Ông cũng là người có công giúp Hàn Tín đến với Lưu Bang nhưng đồng thời cũng có phần nào trách nhiệm trong cái chết của Hàn Tín, việc này đã trở thành một ngạn ngữ của [[Trung Quốc]] ''"Thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà"'' (成也蕭何,敗也蕭何).
 
==Phò Bái Công==
Tiêu Hà vốn là người huyện Bái (ở vùng [[Giang Tô]] ngày nay). Không rõ hoàn cảnh gia thế, chỉ biết khi ấy ông giữ chức ''ngục lại'' ở huyện mình mà sống qua ngày.

Vào năm 209 [[Công209 Nguyên|TCN]], [[nghĩa quân]] [[nông dân]] khắp nơi nô nức kéo về đất Túc, một nơi gần [[bái|huyện Bái]]. Nhiều dân các quận huyện đã nghe lời hiệu triệu của Trương Sở Vương [[Trần Thắng]] tổ chức nghĩa quân, giết hết các bọn quan tham ô lại. Quan huyện Bái kinh sợ đã không biết nên ứng phó thế nào đã cho người đi tìm viên Chủ lại Tiêu Hà và Giám ngục là [[Tào Tham]] đến để bàn bạc.
 
Trước đây Tiêu Hà đã từng làm lính ở huyện Tứ Thuỷ, làm Tòng sự, có nhiều mưu lược và đã được Huyện lệnh rất tin tưởng. Huyện lệnh bàn với Tiêu Hà và Tào Tham hưởng ứng lời kêu gọi của Trương Sở Vương, tham gia chuyện lớn "tạo phản", chống lại sự áp bức tàn khốc của [[nhà Tần|vương triều Tần]]. Tiêu Hà đã khuyên ông triệu tập những nhân sĩ người đất Bái từng chống lại triều Tần và sau này dùng lực lượng này kêu gọi nhân dân đi theo thì hơn. Sau khi bàn bạc, huyện lệnh đã quyết định cử [[Phàn Khoái]] đi mời những người đã theo [[Hán Cao Tổ|Lưu Bang]]. Nhưng sau này huyện lệnh đất Bái đã thay lòng đổi dạ, cho quân lính giữ chặt cửa thành, cho người bắt giam Tiêu Hà và Tào Tham, định giết chết cả hai người nhưng may sao Tiêu Hà và Tào Tham được mật báo nên đã chạy trốn, tìm đến đồn trại của quân Lưu Bang và bàn chuyện phá thành.
Hàng 26 ⟶ 29:
 
==Phò Hán Đế==
Năm thứ 5 đời Hán, Hạng Vũ bị thua chết ở [[Cai Hạ]]. Tháng 2, Lưu Bang lên ngôi Hoàng đế. Trong cuộc chiến tranh thống nhất Trung Hoa, tiêu diệt Hạng Vũ, Lưu Bang đã nhận định "''...xây dựng nước nhà, ổn định nhân dân, chuyển vận nhanh, quân lương sung túc ta không bằng Tiêu Hà...''" Cho nên lúc bình phong công tước, Tiêu Hà được công đầu, ông đứng đầu trong 18 vị ''[[Liệt hầu]]'' được hưởng ơn huệ nhiều nhất, vào triều không phải theo những quy định lễ nghi của triều đình. Ông lên điện vẫn được đeo kiếm.
 
Về sau, Tiêu Hà còn được phong làm An Bình'''Toán hầu''' (酇侯) và hơn chục người thân thuộc của ông cũng được phong chức tước. Tiêu Hà cai trị nước được lòng dân và cũng vô hình là thách thức với uy tín của Hoàng đế. Tiêu Hà cũng thấy được nguy cơ này và hết sức thận trọng trong xử thế. Sau khi thống nhất thiên hạ thì Lưu Bang lại dần tìm cách loại trừ các công thần, loại bỏ chức ''Hoài Âm hầu'' của Hàn Tín.
 
Năm thứ 7 đời Hán (năm [[200 TCN]]), Lưu Bang đưa quân đi đánh vua nước Hàn và [[Hung Nô]]. Tiêu Hà ở hậu phương đã cho lập các cửa cung phía Đông và phía Bắc để bảo vệ hoàng tộc tại [[cung Vị Ương]]. Sau này Lưu Bang đã cho hạ chiếu dời đô từ [[Lạc Dương]] sang [[Trường An]] và bố trí cung điện cho hoàng gia tại đây.
 
Năm 11 đời Hán (năm [[196 TCN]]), Trần Hy làm phản ở đất Triệu, Lưu Bang phải đi dẹp, [[Lã hậu|Lã Hậu]] và Tiêu Hà ở lại kinh thành. Lã Hậu sợ Hàn Tín nội ứng cho giặc ở kinh đô nên muốn trừ khử Hàn Tín. Vừa lúc đó có một bức thư của người em một người đã bị Hàn Tín kết tội đang cho giam trong ngục chờ ngày xử chết, bức thư vu cho Hàn Tín tội mưu phản. Lã Hậu đã lợi dụng Tiêu Hà là người Hàn Tín rất tin tưởng, để bảo Hàn Tín đến cung chúc thọ Lã Hậu. Vừa đến nơi thì Hàn Tín bị võ sĩ mai phục áp dẫn đến cung Trường Lạc chịu hành hình: xẻo mũi, chặt đầu, chặt tứ chi, róc thịt, quăng xương và thịt ra cho [[chó]] ăn để dân xem, với tội mưu phản... Lưu Bang nghe nói Hàn Tín chết ''vừa mừng vừa thương'', đem ấn tín Tướng quốc của Hàn Tín giao cho Tiêu Hà.
 
Hàn Tín đã chết, lòng đố kỵ của hoàng đế tập trung vào Tiêu Hà. Ông được Lưu Bang cho đội bảo vệ theo hầu từng bước, mỗi khi hoàng đế phải thân chinh đi dẹp giặc ở biên ải. Có người đã nói với Tiêu Hà rằng ông nên tỏ ra tham lam để làm hại đến thanh danh liêm khiết của mình thì vua mới yên lòng, mới không lo việc chiếm thành, mua chuộc tình cảm nhân dân của Tiêu Hà. Nhưng ông rất tiết kiệm thanh liêm, luôn giữ phẩm chất trong sạch. Có lần Tiêu Hà đã đề đạt nguyện vọng của dân lên Lưu Bang về việc dùng đất hoang trong vườn thượng uyển để khai khẩn, trồng lúa. Lưu Bang nghe nói vậy rất tức giận, cho rằng ông ăn hối lộ của dân cho nên mới nghĩ đến việc phá vườn thượng uyển. Hoàng đế cho lệnh bắt giam ông. Sau này do [[Vương Vệ Uý]] can gián nên Hoàng đế đã nhận ra sai lầm của mình và Tiêu Hà mới được thả ra. Khi Tiêu Hà đến ra mắt Lưu Bang để tạ tội, Lưu Bang lạnh mặt nói với Tiêu Hà:"''Tướng quốc hãy về nhà nghỉ ngơi. Tướng quốc vì dân mà thỉnh cầu, ta không cho phép, thì ta như [[vua Kiệt]] [[đời Hạ]], [[vua Trụ]] [[nhà Thương|đời Thương]] là vua ác, còn ngươi là [[Tể tướng]] hiền. Việc ta bắt nhà ngươi đã chỉ ra rằng ta đã phạm sai lầm"''.
 
Một thời gian sau, Lưu Bang chết vào cuối năm đó, Tiêu Hà tiếp tục phục vụ con trai Lưu Bang. Năm thứ 2, thờitức [[Hán Huệ Đế|Huệ Đế]] (194Lưu TCN), Tiêu Hà được phong Ích Văn trung hầuDoanh.

Sau này khi ông bị bệnh nặng, vuaHán Huệ Đế đã tự mình đi thăm ông và hỏi về người thay thế sau khi ông chết, liệu là ''[[Tào Tham]]'' có được không. Tiêu Hà nằm trên giường bệnh, ngẩng đầu nói:''"Bệ hạ nói đúng, lão thần chết không ân hận"''. Tào Tham vốn là bạn cũ lâu năm của Tiêu Hà, nhưng sau chuyện phong Bái tướng, giữa hai người đã có mâu thuẫn. Tào Tham ganh ghét Tiêu Hà, nhưng Tiêu Hà không để ý đến mà chỉ cần người có tài và có lợi phục vụ cho đất nước. Về sau này, Tào Tham đã được làm tướng theo chính sách của Tiêu Hà.
 
Ông được ban [[thụy hiệu]] là '''Văn Trung hầu''' (文终侯).
 
==Những đóng góp chính==
Hàng 55 ⟶ 62:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
* [[Sử ký]] - [[Tư Mã Thiên]]
* [[Hán thư]] - [[Ban Cố]]
 
[[Thể loại:Mưu sĩ Trung Quốc]]