Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Pavel I của Nga”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 31:
'''Paven I''' được sinh ra tại lâu đài của nữ hoàng [[Elizaveta I của Nga|Êlidavéta]] tại [[Thủ đô|kinh đô]] [[Sankt-Peterburg]]. Ông là con trai của Đại Công tước Nga [[Pyotr III của Nga|Piốt Phếtđotôvích]] (cháu gọi Êlidavéta bằng dì và cũng là người thừa kế ngai vàng của bà, về sau trở thành Hoàng đế Piốt III) với Đại Công nương [[Ekaterina II của Nga|Êkatêrina Alếchxâyépna]] (về sau trở thành nữ hoàng Êkatêrina II). Trong hồi ký của mình, nữ hoàng Êkatêrina II lại cho rằng Pavel không phải là con trai của bà với Piốt III, mà là với người tình [[Sergei Saltykov|Xécgây Xantikốp]]. Những người ủng hộ Ekaterina II cho rằng Piốt III là một người vô sinh, thậm chí ông ta không thể quan hệ tình dục với Êkatêrina cho đến khi thực hiện một cuộc phẫu thuật chữa trị căn bệnh này. Mặc dù câu chuyện này phần nhiều được cái đối thủ chính trị của Paven ủng hộ, nhằm mục đích tạo sự nghi ngờ về nguồn gốc kế vị chính thống của Pavel. Thật ra dung mạo của Pavel rất giống Piốt III, vì vậy nhiều người vẫn tin rằng Pavel chính là con ruột của Piốt.
 
Ngay từ lúc còn nằm nôi, PavenPavel đã bị tước đoạt khỏi tay mẹ mình bởi nữ hoàng Êlidavéta - người đã vô tình làm hại đến sức khỏe của cậu bằng một lòng thương không đúng chỗ. Có những thông tin cho rằng Pavel là một đứa trẻ xấu xí từ lúc còn nhỏ<ref>Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 77</ref>, tuy nhiên cũng có những báo cáo cho rằng lúc nhỏ cậu rất đẹp trai và khỏe mạnh. Khuôn mặt xấu xí của Pavel những năm sau đó là hậu quả của một trận [[sốt Rickettsia]] vào năm 1771. Đồng thời cũng có những thông tin (ví dụ như ý kiến của [[John Hobart, Công tước thứ hai của Buckinghamshire|John Hobart]], Đại sứ Anh đề xuất vào năm 1764) cho rằng mẹ của Pavel, nữ hoàng Êkatêrina II rất ghét cậu và bà đã cố gắng lắm để không giết cậu ngay từ lúc còn nhỏ, với nỗi sợ rằng Pavel sẽ ám hại mình để cướp ngôi. Tuy nhiên, những ý kiến khác lại cho rằng bản thân Ekaterina rất yêu thương trẻ con vì vậy bà hẳn phải đối xử tốt với con trai Pavel của mình. Thực chất Pavel đã được giao cho [[Nikita Ivanovich Panin]] - một cận thần tin cậy của Êkatêrina - cùng với nhiều gia sư tài giỏi chăm sóc và dạy dỗ.
[[Tập tin:Natalia Alexeievna of Russia by A.Roslin (1776, Hermitage).jpg|nhỏ|trái|Vợ của Paven I, Đại Công nương Nga [[Natalia Alekxeyevna|Natalia Alếchxâyépna]]. Thực hiện bởi [[Alexander Roslin]], trưng bày tại [[Bảo tàng Di sản]]]]
 
Tuy nhiên Êkatêrina đã gặp nhiều rắc rối khi mai mối Paven với Wilhelmina Louisa (sau đó nhận cái tên Nga là "[[Natalia Alekxeyevna của Nga|Natatlia Alếchxâyépna]]"), con gái của [[lãnh chúa xứ Hess-Datmstadt]] [[Ludwig IX, Lãnh chúa xứ Hesse-Darmstadt|Ludwig IX]] vào năm in 1773, và cho phép Paven tham gia triều chính để Paven quen với công việc triều đình. Poroshin - gia sư của PavenPavel - thường xuyên phàn nàn rằng Paven luôn tỏ ra vội vã và ăn nói, hành động thiếu suy nghĩ.
 
== Tuổi trẻ ==
Dòng 58:
Ngay sau khi lên ngôi, ông bãi bỏ một loạt các hoạt động đối ngoại của mẹ mình: cho gọi về các binh lính đóng ở biên giới, đạo quân gồm 60.000 người đang tiến về Ba Tư (mà mẹ ông hứa giúp Anh, Áo đánh Pháp). Biết rằng việc bành trướng của Pháp là tổn thương đến lợi ích của nước Nga, nhưng Pavel lại cố gọi quân đội trở về vì không muốn chiến tranh lan rộng. Ông cũng tin rằng Nga cần những cải cách chính phủ và quân sự đáng kể để tránh tình trạng suy sụp kinh tế và cuộc cách mạng, trước khi Nga có thể tiến hành chiến tranh với bên ngoài<ref>Haukeil, Henry A. and Tyrrell, H., ''The History of Russia from the foundation of the Empire to the War with Turkey in 1877–78,'' Volume 1 (London: The London Printing and Publishing Company, Limited, 1854), p. 366</ref>.
 
Pavel đề nghị hòa giải giữa Áo và Pháp thông qua trung gian là Phổ, để Áo không mất nhiều binh lực. Thế nhưng trước khi Nga giúp Áo, Pháp nhanh chân đi trước, đánh bại Áo và buộc nước này ký ''Hiệp ước Campoformio'' vào tháng 10 năm 1797. Hiệp ước này, với sự khẳng định về sự kiểm soát của Pháp qua các hòn đảo ở Địa Trung Hải và sự phân chia của nước Cộng hoà Venice, đã làm Pavel thất vọng. Ông cho rằng dường như hiệp ước này đang làm gia tăng nhiều bất ổn hơn trong khu vực và thể hiện tham vọng của Pháp ở Địa Trung Hải. Nhưng ông cũng cho phép các hoàng thân Pháp theo phe bảo hoàng là Hoàng thân de Condé cùng quân đội của ông ta, cũng như [[Louis XVIII]], cả hai đều bị buộc phải rời khỏi Áo theo hiệp ước này<ref>Haukeil, Henry A. and Tyrrell, H., ''The History of Russia from the foundation of the Empire to the War with Turkey in 1877–78'', Volume 1 (London: The London Printing and Publishing Company, Limited, 1854), p. 288 - 289</ref>. Sự thất vọng của Pavel trước các hành động của Pháp ở Địa Trung Hải đã buộc Sa hoàng tìm đến các quốc gia chống Pháp để kết đồng minh. Thông qua Ngoại trưởng Áo là Bá tước Thugut (1793-1801), người ghét người Pháp và đã chỉ trích các nguyên tắc cách mạng của nước Pháp, Sa hoàng quyết định tham gia [[liên minh thứ hai]] với Anh, Áo và Đế chế Ottoman để kiềm chế tham vọng của Pháp, giải phóng các lãnh thổ dưới sự kiểm soát của quân Pháp và thiết lập lại chế độ quân chủ cũ. Nước duy nhất không tham gia liên minh này đó là Phổ, vì vua Phổ [[Friedrich Wilhelm III]] không tin tưởng vào nước Áo và vấn đề an ninh mà họ nhận được từ mối quan hệ hiện tại của họ với Pháp đã cản trở họ tham gia vào liên minh. Mặc dù thất vọng vì sự miễn cưỡng của Phổ, Nga vẫn gửi 60.000 quân sang giúp Áo ở Ý và 45.000 quân để giúp Anh ở Bắc Đức và Hà Lan.
Pavel đề nghị hòa giải giữa Áo và Pháp thông qua trung gian là Phổ, để Áo không mất nhiều binh lực. Thế nhưng trước khi Nga giúp Áo, Pháp nhanh chân đi trước, đánh bại Áo và buộc nước này ký Hiệp ước Campoformio vào tháng 10 năm 1797
 
Một yếu tố quan trọng trong quyết định của Pavel để đi đến chiến tranh với Pháp là đảo Malta, quê hương của các Hiệp sĩ Cứu tế. Ngoài Malta, Dòng hiệp sĩ này đã có mạng lưới các giáo sĩ ở khắp các quốc gia châu Âu và có nguồn tài chính rất lớn. Năm 1796, Dòng tu này đã tiếp cận và trao đổi với Pavel về phục hồi nhà thờ Ba Lan trên đất Nga, vốn bị bỏ phế từ 100 năm nay<ref> McGrew, Roderick E. (1979) "Paul I and the Knights of Malta," in ''Paul I: A Reassessment of His Life and Reign'', ed. Hugh Ragsdale (Pittsburgh: University Center for International Studies, University of Pittsburgh) ISBN 0-916002-28-4, p. 46 - 48</ref>. Hoàng đế nhớ lại, thời còn thiếu niên ông đã học về lịch sử dòng tu này và bị ấn tượng bởi danh dự của họ và kết nối với trật tự cũ mà họ là đại diện. Sa hoàng cho mời các giáo sĩ của dòng này về thủ đô vào tháng Giêng năm 1797. Đáp lại, các giáo sĩ tuyên bố sẽ bảo hộ tôn giáo đối với thủ đô này.
 
Tháng 6 năm 1798, Napoléon chiếm giữ Malta và việc làm này khiến Sa hoàng Pavel bị xúc phạm<ref>McGrew, Roderick E. (1979) "Paul I and the Knights of Malta," in ''Paul I: A Reassessment of His Life and Reign'', ed. Hugh Ragsdale (Pittsburgh: University Center for International Studies, University of Pittsburgh) ISBN 0-916002-28-4, p. 51</ref>. Tháng 9, nhà dòng Sankt Petersburg đã tuyên bố rằng Grand Master Hompesch đã phản bội dòng tu bằng cách bán Malta cho Napoleon. Một tháng sau Nhà Dòng đã chọn Pavel làm Grand Master. Cuộc bầu cử này khiến dòng tu bị các giáo sĩ Công giáo khác phản đối và tranh cãi quyết liệt, khi mà bản thân cuộc bầu cử này không được Giáo hoàng chấp nhận. Sự trì hoãn này tạo ra các vấn đề chính trị giữa Pavel, người nhấn mạnh vào việc bảo vệ tính hợp pháp của mình, với tu sĩ các quốc gia Công giáo khác vốn muốn phản đối việc này. Mặc dù công nhận cuộc bầu cử của Pavel đã trở thành một vấn đề chia rẽ hơn sau này trong thời trị vì của ông, một Tu viện trưởng của dòng tu Cứu tế, một lý do khác để chống lại Cộng hòa Pháp.
 
Quân đội Nga ở Ý đã đóng vai trò của một lực lượng phụ trợ được gửi đến để hỗ trợ người Áo và các nước khác trong liên minh thứ hai. Dưới sự chỉ huy chung của Đại thống soái Nga [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|Aleksandr Suvorov]] và Đô đốc Nga [[Fyodor Ushakov]], quân đồng minh đã đánh tan quân Pháp trong chiến dịch Italia 1799. Tuy nhiên, vào thời điểm này, các vết nứt đã bắt đầu xuất hiện trong liên minh Nga-Áo do các mục đích khác nhau của các nước này tại Italia. Trong khi Pavel và tướng Suvorov muốn giải phóng và phục hồi các chế độ quân chủ ở Italia, quân Áo tìm kiếm sự chiếm lĩnh lãnh thổ ở Italia<ref>McGrew, Roderick E. (1992), ''Paul I of Russia''. (Oxford: Clarendon Press) ISBN 0-19-822567-9, p. 299</ref>. Người Áo trông đợi Suvorov và quân đội của ông ra khỏi nước Italia để gặp quân đội Alexander Korsakov, lúc này đang giúp quân của Đại công tước Áo Charles (1771-1847) để tấn công nhằm trục xuất quân đội Pháp hiện đang chiếm đóng Thụy Sĩ<ref>Haukeil, 358.</ref>. Tuy nhiên, chiến dịch ở Thụy Sĩ đã trở thành bế tắc, không có nhiều hoạt động ở hai bên cho đến khi người Áo rút lui. Các quân đoàn của Pháp tổng phản công bao vây quân Nga<ref>Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, ''Những nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới'', biên dịch: Phan Quốc Bảo, Hà Kim Sinh, Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2003 (In tại xưởng in giao thông, ĐKKHXB số 317/97/XB-QLXB, Cục Xuất bản cấp ngày 28 – 01 – 2002). Tài liệu này được dịch từ cuốn sách cùng tên do Nhà xuất bản Thiên Thanh – Bắc Kinh xuất bản năm 2000. Phần: Suvorov - Bách chiến bách thắng, tr. 343</ref>, phá hủy quân Korsakov và buộc Suvorov phải chiến đấu đơn độc, quân Nga bị tổn thất lực lượng quá nặng nề. Thất bại, Suvorov rút đại quân ra khỏi Thụy Sĩ về nước một cách an toàn<ref>Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, ''sách đã dẫn'', trang 344</ref>. Suvorov, xấu hổ, đổ lỗi cho người Áo vì thất bại khủng khiếp ở Thụy Sĩ, cũng như quyền chỉ huy tối cao của ông ta. Sự thất bại này của Nga, kết hợp với việc từ chối khôi phục lại chế độ quân chủ cũ ở Ý và sự không tôn trọng lá cờ Nga trong thời gian xâm chiếm Ancona, dẫn đến sự chấm dứt chính thức của liên minh thứ hai vào tháng 10 năm 1799<ref>For a summary of the taking of Ancona, see McGrew (1992), 306. For a quick summary of all the issues involved, see Hugh Ragsdale, "A Continental System in 1801: Paul I and Bonaparte," ''The Journal of Modern History'', 42 (1970), 70–71.</ref>.
 
Mặc dù vào mùa thu năm 1799 liên minh Nga-Áo bị tan rã, Pavel vẫn hợp tác với người Anh. Sa hoàng hội đàm bí mật với Thủ tướng Anh [[William Pitt Trẻ]], kêu gọi Anh cùng liên minh với Nga lên kế hoạch tấn công Hà Lan, sau đó là tấn công luôn cả Pháp. Không giống như Áo, cả Nga và Anh đều không có tham vọng bí mật nào về lãnh thổ: cả hai đều đơn giản là chỉ tìm cách đánh bại quân Pháp<ref>McGrew, Roderick E. (1992), ''Paul I of Russia''. (Oxford: Clarendon Press) ISBN 0-19-822567-9, p. 309</ref>. Cuộc xâm lược Hà Lan của liên minh Nga - Anh diễn ra thuận lợi và không có sự kháng cự nào đáng kể. Nhưng khi đánh trận Callantsoog (27 Tháng 8 năm 1799), liên quân Nga - Anh gặp muôn vàn khó khăn do việc quân Nga chậm phối hợp với Anh trong điều kiện thời tiết quá xấu, sự phối hợp yếu kém, và sự phản đối mạnh mẽ bất ngờ của người Hà Lan và Pháp. Không muốn kéo dài cuộc chiến và cũng sợ Pháp sẽ gây chuyện, Nga và Anh ký hiệp định đình chiến với Hà Lan và rút lui. Quân liên minh Nga - Anh bị tổn thất: Nga mất 3/4 số quân tham chiến, Anh buộc phải bỏ một đạo quân ở trên đảo để bí mật rút về nước. Sự thất bại này làm rạn nứt quan hệ Nga - Anh và buộc Sa hoàng quay sang liên minh với cường quốc khác. Bất mãn việc Anh không chuộc binh lính Nga bị Pháp giam giữ trong chiến tranh giữa liên minh Nga - Anh vào Hà Lan (8/1799), Pavel bắt đầu chú ý đến quan hệ với các nước vùng Scandinavia là Đan Mạch và Thụy Điển. Quan hệ Nga - Anh bắt đầu rạn nứt từ năm 1800, khi đại sứ Anh tại St. Petersburg (Whitworth) nhớ lại, Anh ngầm chọn nước Áo làm đồng minh<ref>For a summary, with more information on Paul growing closer to the Baltic states, see McGrew (1992), 311–12. ''For information on the British ambassador and their choice of Austria over Russia'', see Ragsdale, "A Continental System in 1801: Paul I and Bonaparte," The Journal of Modern History, 71–72. For Napoleon's actions and Paul's feelings towards him, see Haukeil, 365.</ref>, người đã cam kết chiến đấu chống Pháp cho đến hồi kết. Cuối cùng, hai sự kiện xảy ra liên tiếp đã phá huỷ hoàn toàn liên minh: ''thứ nhất'', vào tháng 7 năm 1800, người Anh bắt giữ một tàu khu trục của Đan Mạch, khiến Pavel phải đóng cửa các nhà máy thương mại của Anh tại St. Petersburg và tịch thu các tàu và hàng hoá của Anh; ''Thứ hai'', mặc dù các đồng minh đã cố gắng giải quyết được cuộc khủng hoảng này, Pavel không thể tha thứ cho người Anh vì Đô đốc [[Horatio Nelson]] từ chối trả lại Malta cho dòng tu Hiệp sĩ Cứu tế, khi Anh chiếm lại vùng đất này từ tay Pháp vào tháng 9 năm 1800<ref>For information on the Danish frigate, see Hugh Ragsdale, "Was Paul Bonaparte's Fool?: The Evidence of Neglected Archives," in ''Paul I: A Reassessment of His Life and Reign, ed. Hugh Ragsdale'' (Pittsburgh: University Center for International Studies, University of Pittsburgh, 1979), 80. For Paul's reaction to the seizure and then the events at Malta, see McGrew (1992), 313–14. For the date of the Maltese events, and a more English view of them, see Haukeil, 366.</ref>. Với một phản ứng mạnh mẽ, Pavel đã tịch thu tất cả các tàu của Anh tại các cảng của nước Nga, đưa các đội tàu của họ đến các trại giam và bắt các thương nhân Anh làm con tin cho đến khi ông nhận được sự "cầu xin thả thương nhân" của chính phủ Anh. Mùa đông năm 1800, Pavel lập liên minh mới với các nước thuộc vùng biển Baltic là Thụy Điển, Đan Mạch và Phổ để tấn công quân Anh, cô lập thương mại của người Anh tại Bắc Âu. Ủng hộ Nga, Pháp ra lệnh đóng cửa khẩu ở các nước Tây Âu và Nam Âu (các nước này chủ yếu dùng hàng nhập khẩu của Anh là gỗ và ngũ cốc) để Anh không buôn bán được. Cảm thấy bị đe dọa thương mại bởi chính sách phong tỏa thương mại của Hoàng đế Nga, quân Anh bất ngờ gửi một đội tàu đến Đan Mạch, bắn phá Copenhagen và buộc vua Đan Mạch đầu hàng vào đầu tháng 4<ref>Haukeil, 366.</ref>. Nelson sau đó đi thuyền về phía St Petersburg, vươn tới Reval (14 tháng 5 năm 1801). Quan hệ Nga - Anh căng thẳng cực độ. Sau khi Pavel bị ám sát, con trai là [[Aleksandr I của Nga|Aleksandr I]] vội mở cuộc đàm phán hòa bình ngay với Anh sau khi lên ngôi<ref>McGrew, Roderick E. (1992), ''Paul I of Russia''. (Oxford: Clarendon Press) ISBN 0-19-822567-9, p. 314</ref>.
 
Khía cạnh ban đầu nhất trong chính sách đối ngoại của Pavel I là sự hợp tác của ông với Pháp sau khi liên minh tan rã. Một số học giả đã lập luận rằng sự thay đổi vị trí này, mặc dù dường như có ý nghĩa rất rõ ràng, khi Bonaparte trở thành ''First Consul'' (Tổng tài thứ nhất) và làm cho Pháp trở thành một quốc gia bảo thủ hơn, nhất quán với quan điểm của Pavel về thế giới - đó là quan điểm về "giấc mộng phương Đông" là chiếm Ấn Độ. Đầu năm 1801, Pavel phái 40 trung đoàn Cossak sang Ấn Độ. Quyết định này của Pavel không khiến Anh bất ngờ, vì bản thân nước Anh tin chắc rằng sẽ không có cuộc đổ bộ nào của Nga (hay Pháp) vào Ấn Độ. Người Anh lường trước việc này khi ký kết 3 hiệp ước với Shah Ba Tư [[Fath Ali Shah Qajar]] vào năm 1801, 1809 và 1812 để ngăn chặn một cuộc đổ bộ vào Ấn Độ theo hướng từ Trung Á vào<ref>"While the British were signing treaties with Persia to protect their holding in India in the late 18th century Paul I was working with the kingdom of Georgia and made them a protectorate of the Russian empire in 1768 and then in 1801 Georgia was attacked by Iranian forces. This attack would push Paul I to take further steps beyond what was in place in order to protect his interests in the Caucasus. Paul I intended to annex the kingdom but he was assassinated before he could finish the decree but Alexander I, Paul I's successor, would finish the deal and provide full protection." Atkin, "The Pragmatic Diplomacy of Paul I", p. 69.</ref>. Pavel tìm cách tấn công người Anh nơi họ yếu nhất: thông qua thương mại và các thuộc địa của họ. Trong suốt triều đại của ông, các chính sách của ông tập trung tái lập hòa bình và cân bằng quyền lực ở châu Âu, trong khi ủng hộ chế độ độc tài và chế độ quân chủ cũ, mà không cần mở rộng biên giới của Nga<ref>Ragsdale, "Was Paul Bonaparte's Fool?" in ''Paul I: A Reassessment of His Life and Reig''n, 88.</ref>.
 
=== Vấn đề Ba Tư ===
 
== Hình ảnh ==