Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lương Đắc Bằng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 9:
Ông đỗ [[Bảng nhãn]] hay Hội nguyên ở kì thi Hội năm Kỷ Mùi 1499 đời vua [[Lê Hiến Tông]]; rồi thi Đình đỗ Nhất giáp tiến sĩ tên thứ 2, khi ứng chế được xếp thứ nhất<ref>phép thi thời này là có kì thi Hội, rồi thi Đình; thi Đình là thi vòng cuối, thường nhà vua trực tiếp vấn đáp</ref>. Ra làm quan, được thăng đến chức Tả Thị Lang [[bộ Lễ]], Thị độc viện hàn lâm coi việc ở viện.<ref>Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục, 2007, tr 302, 303</ref>
Nguyễn Văn Lang phát binh ra Thăng Long, vua Uy Mục thua trận, phải uống thuốc độc tự tự, năm ấy Lê Dinh lên ngôi, tức vua Lê Tương Dực. Sau khi lên ngôi vua sai đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Ngạc, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản đi sứ sang nhà Minh. Vua dời thi hài mẹ mình về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên, dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Lương Đắc Bằng lúc ấy làm Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự soạn bi ký.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1998, trang 51</ref>
|