Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Tư Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Ngomanh123 (thảo luận | đóng góp)
đầu
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 189:
 
== Thụy hiệu, miếu hiệu ==
Ngày 6 tháng 5 âm lịch năm Sùng Trinh thứ 17 (Thanh Thuận Trị nguyên niên), Duệ Thân vương [[Đa Nhĩ Cổn]] lấy cựu thần nhà Minh [[Lý Minh Duệ]] làm [[Bộ Lễ|Lễ bộ]] [[Thị lang]], phụ trách việc tế táng cho Đại hành Hoàng đế, ban đầu đặt thụy hiệu là '''Khâm Thiên Thủ Đạo Mẫn Nghị Đôn Kiệm Hoằng Văn Tương Vũ Thể Nhân Trí Hiếu Đoan Hoàng đế''' (欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝端皇帝), miếu hiệu là '''Hoài Tông''' (懷宗) <ref name=msxm>《欽定四庫全書·御選四朝詩》之<明詩姓名爵里一·帝系>:莊烈皇帝諱由檢,光宗第五子初封信王,天啟七年即位,改元崇禎,在位十七年。諡曰欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝懷宗端皇帝,更定莊烈愍皇帝。</ref><ref name=msz>《欽定四庫全書·明詩綜》卷一:南福藩稱制,遥上帝諡,曰紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝,廟號思宗。后諡曰孝節貞肅淵恭莊奉天靖聖烈皇后。尋改帝廟號曰毅宗。唐藩稱制,復改威宗。皇朝順治初,更諡帝曰欽天守道敏毅敦儉弘文襄武體仁致孝懷宗端皇帝,后曰孝敬貞烈慈惠莊敏承天配聖端皇后,既而改稱莊烈愍皇帝。凡五易而後定焉。今神牌所書,即順治初定一十六字,第其下改書莊烈愍皇帝。</ref>.
Sau khi Sùng Trinh qua đời, các hoàng thân nhà Minh còn lập ra nhà [[Nam Minh]] để khôi phục chính quyền, chống lại [[Đại Thuận]] và quân Thanh. Phúc vương Chu Do Tung tôn ông là Tư Tông Liệt hoàng đế. Sau vì chữ "Tư" không đẹp nên đổi gọi là Nghị Tông.
 
[[Chu Do Tung|Hoằng Quang Đế]] [[Nhà Nam Minh|nhà Nam Minh]] đặt thụy hiệu là '''Thiệu Thiên Dịch Đạo Cương Minh Khác Kiệm Quỹ Văn Phấn Vũ Đôn Nhân Mậu Hiếu Liệt Hoàng đế''' (紹天繹道剛明恪儉揆文奮武敦仁懋孝烈皇帝), miếu hiệu là '''Tư Tông''' (思宗). Tháng 2 Hoằng Quang nguyên niên, cải miếu hiệu thành '''Nghị Tông''' (毅宗) <ref>據《[[聖安皇帝本紀]]》,《[[南渡錄]]》均作二月丙子,《[[弘光實錄鈔]]》作二月庚辰</ref>. Đường vương [[Chu Duật Kiện]] nối ngôi, lại cải miếu hiệu thành '''Uy Tông''' (威宗).
Đường vương Chu Duật Kiện nối ngôi ([[1645]]) sửa tôn hiệu cho ông là Uy Tông Đoan hoàng đế.
 
Đến thời [[nhàNhà Thanh]], [[Thuậnđặt Trị|Thanh Thế Tổ]] đặtmiếu hiệu cho Sùng Trinh là Hoài Tông, nhưng theo lễ thì triều vua sau đối với vua triều trước không đặt [[miếu hiệu]] mà chỉ đặt [[thụy hiệu]]<ref name="Hồ Hán Sinh, sách đã dẫn, tr 361">Hồ Hán Sinh, sách đã dẫn, tr 361</ref>, nên vào tháng 11 năm Thuận Trị thứ 16 ([[1659]]) đã thay nội dung bia của lăng tẩm, chỉ đặt thụy hiệu cho ông là '''Trang Liệt Mẫn hoàngHoàng đế''' (莊烈愍皇帝) <ref name=msxm/><ref name=msz/>, do đó các sách vở đời Thanh đều gọi tắt là '''Trang Liệt Đế''' hoặc '''Minh Mẫn Đế'''.
 
== Thông tin cá nhân ==