Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sinh đồ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
'''Sinh đồ''' ([[chữ Nho]]: 生徒; tên gọi khác là '''Tú tài''') là một loại học vị trong hệ thống giáo dục [[Việt Nam]] thời phong kiến. LoạiNho học, vịchỉ nàynhững đượcngười xácđỗ địnhtam trongtrường kỳkhoa [[thi Hương]].
 
VàoTheo đờilệ [[nhàcứ Hậu3 Lê]]năm mỗimột lần tổ chức một khoa thi Hương: thí sinh của nhiều tỉnh thi chung 1 trường thi, mỗi trường thi chỉ lấy ít người đỗ tứ trường gọi là Cống sĩ. Mỗi khoa thi có 4 kỳ (xưa gọi là 4 trường) kéo dài khoảng 1 tháng, nội dung thi cơ bản như sau:
*Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
*Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
Dòng 8:
*Kỳ IV: văn sách.
 
Cống sĩ được bổ nhiệm làm quan, Sinh đồ (Tú tài) đủ tư cách đi dạy học.
Thi xong kỳ nào chấm bài kỳ ấy, ai đỗ vào thi tiếp kỳ sau, ai trượt thì về. Thi đỗ kỳ III, vào kỳ IV không đỗ thì được nhận học vị sinh đồ, đỗ cả bốn kỳ được nhận học vị [[hương cống]], và năm sau mới được phép dự thi kỳ [[thi Hội]], nếu muốn.
 
Hương cống và sinh đồ là tên gọi do vua [[Lê Thánh Tông]] đặt năm [[1466]]. Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi Sinh đồ thành '''Tú tài'''.
 
Đến năm [[1828]] vua [[Minh Mạng]] mới đổi cách gọi Sinh đồ thành '''Tú tài'''.
 
==Xem thêm==