Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Dzinh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → using AWB |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
}}
'''Bùi Dzinh''' (sinh 1929), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Đại tá]]. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia sau khi
==Tiểu sử và Binh nghiệp==
Dòng 25:
Tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia.<ref>Thời điểm này Quân đội Quốc gia vẫn còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 12 năm 1950 mới chính thức được thành lập.</ref> Ông được theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,<ref>Năm 1959 trường Võ bị Liên quân được đổi tên thành trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.</ref> khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950.<ref>Thời gian thụ huấn, Sinh viên Sĩ quan Bùi Dzinh được cử làm khóa sinh Đại diện trưởng cho toàn khóa học.</ref> Ngày 25 tháng 6 năm 1951, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường ông được điều động phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 21<ref>Liên đoàn Lưu động số 21, về sau được lấy làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 21 Bộ binh, rồi cải danh thành Sư đoàn Dã chiến số 21. Đầu tháng 12 năm 1958, đổi tên lần cuối trở thành Sư đoàn 1 Bộ binh, là đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật.</ref> với chức vụ Trung đội trưởng.
Giữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được cử đi học lớp Tham mưu trung cấp tại trường Tham mưu ở Paris (École Militaire Paris), Pháp. Đầu năm 1953, mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được thăng cấp [[Trung úy]] chuyển vào Nam phục vụ tại Phòng 3 Đệ nhất Quân khu, dưới quyền Đại tá [[Lê Văn Tỵ]].<ref>Đệ nhất Quân khu được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952, bản doanh đặt tại Sài Gòn. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Đầu tháng 11 năm 1955, chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa (được cải danh từ Quân đội Quốc gia), ông được cử làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Nam-Ngãi.<ref>Tiểu khu Nam-Ngãi gồm 2 tỉnh thuộc Nam Trung phần Việt Nam là Quảng Nam và Quảng Ngãi.</ref> Ông đã thành công trong việc kêu gọi hai ông Nguyễn Đình Thiệp Chỉ huy quân sự và Phạm Thái là Chính trị viên của Lực lượng vũ trang [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] cùng các chiến sĩ thuộc các đơn vị này đang trú đóng trong vùng nộp vũ khí về với Chính phủ của Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]]. Giữa năm 1956, ông được cử đi học lớp "Chiến tranh chống Du kích" tại Manilla, Philippines trong thời gian 3 tháng. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, sau khi mãn khóa học ở Philippines về nước, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]].
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Trung tá]], sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 15 Khinh chiến (Bản doanh được đặt tại Dục Mỹ, Ninh Hòa, Khánh Hòa) thay thế Trung tá [[Nguyễn Văn Vĩnh
Đầu năm 1960, mãn khóa học từ Mỹ về nước, ông được cử làm Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh, do Đại tá [[Trần Thiện Khiêm]] làm Tư lệnh. Ông đã cùng Đại tá Khiêm đưa Sư đoàn 21 từ miền Tây về Sài Gòn ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], chống lại nhóm sĩ quan do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] (Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Nhảy dù) cầm đầu cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]].<ref>Đại tá Bùi Dzinh có 2 lần đưa quân về ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Lần thứ nhất thành công với Sư đoàn 21 Bộ binh ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]]. Lần thứ hai với Sư đoàn 9 Bộ binh không thành công ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1/11/1963]].</ref> Đầu tháng 6 năm 1961, ông được thuyên chuyển về vùng 3 chiến thuật để nhận chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh (Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Phú Lợi, Bình Dương), dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]]. Hơn 4 tháng sau, tướng Trần Ngọc Tám rời Sư đoàn để về phục vụ ở Trung ương, Đại tá [[Nguyễn Đức Thắng (tướng)|Nguyễn Đức Thắng]] (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh) từ Vùng 1 Chiến thuật chuyển về thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
Đầu năm 1962, ông được thuyên chuyển ra miền Trung để nhận chức vụ Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 9 Bộ binh tân lập.<ref>Sư đoàn 9 Bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1962 tại Bình Định.</ref> Đến ngày 20 tháng 9 năm 1963, sau khi Sư đoàn đã được huấn luyện và bổ sung hoàn chỉnh cấp số. Ông chỉ huy Sư đoàn 9 hành quân di chuyển vào Nam, đặt Bộ Tư lệnh tại Thị xã Sa Đéc thuộc Khu 42
===Kỷ luật và xuất ngũ===
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã không tán thành cuộc đảo chính của nhóm quân nhân do Trung tướng [[Dương Văn Minh]] lãnh đạo. Sáng sớm ngày 02 tháng 11, mặc dù đang hành quân tại Thị xã Trúc Giang (tỉnh lỵ tỉnh Kiến Hòa), ông đã đưa Sư đoàn 9 Bộ binh về Sài gòn với ý định giải cứu Tổng thống Diệm lần thứ hai. Tuy nhiên lần này ông đã bị Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]] (người vừa thay thế Đại tá [[Bùi Đình Đạm]] giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh), đem quân chặn ở ngã ba Trung Lương và khu vực bến phà Mỹ Thuận ở sông Tiền. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 7 đã rút hết những chiếc phà ở bờ
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, mặc dù đang ở trong tình trạng "nghỉ dài hạn không lương" và bị cách chức, ông đã cùng với Thiếu tướng [[Lâm Văn Phát]], Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] và một số sĩ quan tham gia cuộc chỉnh lý lật đổ Quốc trưởng [[Nguyễn Khánh]]. Chính ông đã vạch ra kế hoạch và cùng Trung tá [[Lê Hoàng Thao
==1975==
Sau ngày 30 tháng 4, ông trình diện Chính quyền Quân quản Cách mạng và bị đưa đi tù lưu đày từ Nam ra Bắc, cho đến cuối năm
Giữa năm 1981, ồng cùng 2 người con vượt biên bằng đường biển đến Trại tị nạn Ở Thái Lan. Tại đây ông và các con xin được đi định cư ở Pháp. Sau đó ông đã bảo lãnh những thành viên còn lại của gia đình cùng sang Pháp đoàn tụ.
Hàng 52 ⟶ 50:
==Tham khảo==
*
*
*
==Liên kết==
-
-
[[Thể loại:Sinh 1929]]
|