Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Dzinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: → using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
| tên= '''BÙI DZINH
| hình=
| ngày sinh= '''[[Tháng 9]], [[1929]] ([[88]] tuổi)
| nơi sinh= [[Quảng Bình]], [[Việt Nam]]
| ngày mất=
| nơi mất=
| phục vụ= '''[[Hình: Flag of South Vietnam.svg|40px]] [[Việt Nam Cộng hòa]]
| thuộc= '''[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|36px]] [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân lực VNCH]]
| năm phục vụ= '''[[1950]]-[[1965]]
| cấp bậc= '''[[Hình: DaiTaQLVNCHlucquan1963.gif|20px14px]] [[Đại tá|Đại tá Lục quân]]
| đơn vị= '''[[Hình: ARVN 23rd Division Insignia.svg|20px]] [[Sư đoàn 23 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|SĐ 16 Khinh chiến]]<ref>Sư đoàn 15 Khinh chiến là tiền thân của Sư đoàn 23 Bộ binh sau này.</ref><br/>[[ ]] [[Sư đoàn 21 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 21 Bộ binh]]<br/>[[Hình: SuDoan9.jpg|20px]] [[Sư đoàn 9 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 9 Bộ binh]]<br/>[[Hình: QD IV VNCH.jpg|20px]] [[Quân đoàn IV (Việt Nam Cộng hòa)|Vùng 4 Chiến thuật]]
| chỉ huy= '''[[Hình: Flag of the Vietnamese National Army.svg|26px]] [[Quân đội Quốc gia Việt Nam|Quân đội Quốc gia]]<br/>[[Hình: Flag of the South Vietnamese Army.jpg|26px]] [[Quân độilực Việt Nam Cộng hòa|Quân độilực VNCH]]
| tham chiến= '''[[Chiến tranh Việt Nam]]
| huy chương=
| công việc khác=
}}
 
'''Bùi Dzinh''' (sinh 1929), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]], cấp bậc [[Đại tá]]. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên tại trường Võ bị Quốc gia sau khi Trườngtrường di chuyển từ Huế về Namnam Caocao nguyên Trung phần. Ra trường, ông được chọn phục vụ đơn vị Bộ binh. Ông đã đảm trách từ chức vụ nhỏ nhất là sĩ quan chỉ huy cấp Trung đội. Tuần tự theo hệ thống chỉ huy, ông đã lên đến Tư lệnh cấp Sư đoàn Bộ binh. Là một sĩ quan trung thành với Chính thể Đệ nhất Cộng hòa, nên sau cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính]] lật đổ Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], ông phải ra trước Hội đồng Kỷ luật Quân đội và bị cách chức. Hai năm sau, ông tham gia cuộc Đảo chính (ngày 19/2/1965) do tướng [[Lâm Văn Phát]] cầm đầu. Lần này ông bị Tòa án Mặt trận kết tội và cuộc đời binh nghiệp của ông chính thức khép lại từ đây.
 
==Tiểu sử và Binh nghiệp==
Dòng 25:
Tháng 9 năm 1950, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia.<ref>Thời điểm này Quân đội Quốc gia vẫn còn là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 12 năm 1950 mới chính thức được thành lập.</ref> Ông được theo học khóa 3 Trần Hưng Đạo tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt,<ref>Năm 1959 trường Võ bị Liên quân được đổi tên thành trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.</ref> khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1950.<ref>Thời gian thụ huấn, Sinh viên Sĩ quan Bùi Dzinh được cử làm khóa sinh Đại diện trưởng cho toàn khóa học.</ref> Ngày 25 tháng 6 năm 1951, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc [[Thiếu úy]] hiện dịch. Ra trường ông được điều động phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 21<ref>Liên đoàn Lưu động số 21, về sau được lấy làm nòng cốt để thành lập Sư đoàn 21 Bộ binh, rồi cải danh thành Sư đoàn Dã chiến số 21. Đầu tháng 12 năm 1958, đổi tên lần cuối trở thành Sư đoàn 1 Bộ binh, là đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn I và Vùng 1 Chiến thuật.</ref> với chức vụ Trung đội trưởng.
 
Giữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu, ông được cử đi học lớp Tham mưu trung cấp tại trường Tham mưu ở Paris (École Militaire Paris), Pháp. Đầu năm 1953, mãn khóa học từ Pháp về nước, ông được thăng cấp [[Trung úy]] chuyển vào Nam phục vụ tại Phòng 3 Đệ nhất Quân khu, dưới quyền Đại tá [[Lê Văn Tỵ]].<ref>Đệ nhất Quân khu được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952, bản doanh đặt tại Sài Gòn. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá [[Lê Văn Tỵ]]. Ngày 1 tháng 3 năm 1959 cải danh thành Quân đoàn III và Vùng 3 Chiếnchiến thuật do Trung tướng [[Thái Quang Hoàng]] làm Tư lệnh đầu tiên.</ref> Năm 1954, sau ngày ký Hiệp định Genève (20/7/1954), ông được thăng cấp [[Đại úy]] tại nhiệm.
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hòa===
Đầu tháng 11 năm 1955, chuyển biên chế sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hòa (được cải danh từ Quân đội Quốc gia), ông được cử làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Nam-Ngãi.<ref>Tiểu khu Nam-Ngãi gồm 2 tỉnh thuộc Nam Trung phần Việt Nam là Quảng Nam và Quảng Ngãi.</ref> Ông đã thành công trong việc kêu gọi hai ông Nguyễn Đình Thiệp Chỉ huy quân sự và Phạm Thái là Chính trị viên của Lực lượng vũ trang [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] cùng các chiến sĩ thuộc các đơn vị này đang trú đóng trong vùng nộp vũ khí về với Chính phủ của Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]]. Giữa năm 1956, ông được cử đi học lớp "Chiến tranh chống Du kích" tại Manilla, Philippines trong thời gian 3 tháng. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, sau khi mãn khóa học ở Philippines về nước, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]].
 
Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1958, ông được thăng cấp [[Trung tá]], sau đó ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 15 Khinh chiến (Bản doanh được đặt tại Dục Mỹ, Ninh Hòa, Khánh Hòa) thay thế Trung tá [[Nguyễn Văn Vĩnh<ref>Trung (Đại, '''Quân lực VNCH)|Nguyễn Văn Vĩnh''']]<ref>Giải ngũ ở cấp Đại tá, nguyên tốt nghiệp khóa 5 Võ bị Đà Lạt. Là Tư lệnh thứ 2 của Sư đoàn 15 Khinh chiến ''(sau Trung tá [[Nguyễn Thế Như (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Thế Như]], vềtốt saunghiệp khóa 1 Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt. giảiGiải ngũ ở cấp Đại tá.)''</ref> Tháng 4 năm 1959, Sư đoàn 15 Khinh chiến hợp cùng với Sư đoàn 16 Khinh chiến để thành lập Sư đoàn 23 Bộ binh, ông trở thành Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 23 Bộ binh tân lập.<ref>Cuối năm 1960, Sư đoàn 23 Bộ binh thay đổi địa bàn hoạt động, di chuyển lên Cao nguyên, đặt Bộ Tư lệnh tại Thị xã Ban Mê Thuột (Thủ phủ của vùng Cao nguyên Trung phần).</ref> Giữa năm 1959, bàn giao Sư đoàn 23 lại cho Trung tá [[Trần Thanh Phong]], ông được cử đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu (US Army Command aGenerGeneeral Staff Collge) Fort Leavenworth thuộc Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ.
 
Đầu năm 1960, mãn khóa học từ Mỹ về nước, ông được cử làm Tư lệnh phó Sư đoàn 21 Bộ binh, do Đại tá [[Trần Thiện Khiêm]] làm Tư lệnh. Ông đã cùng Đại tá Khiêm đưa Sư đoàn 21 từ miền Tây về Sài Gòn ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], chống lại nhóm sĩ quan do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] (Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Nhảy dù) cầm đầu cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]].<ref>Đại tá Bùi Dzinh có 2 lần đưa quân về ứng cứu Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]]. Lần thứ nhất thành công với Sư đoàn 21 Bộ binh ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|Đảo chính ngày 11/11/1960]]. Lần thứ hai với Sư đoàn 9 Bộ binh không thành công ở cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|Đảo chính ngày 1/11/1963]].</ref> Đầu tháng 6 năm 1961, ông được thuyên chuyển về vùng 3 chiến thuật để nhận chức vụ Tư lệnh phó Sư đoàn 5 Bộ binh (Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Phú Lợi, Bình Dương), dưới quyền Tư lệnh của Thiếu tướng [[Trần Ngọc Tám]]. Hơn 4 tháng sau, tướng Trần Ngọc Tám rời Sư đoàn để về phục vụ ở Trung ương, Đại tá [[Nguyễn Đức Thắng (tướng)|Nguyễn Đức Thắng]] (nguyên Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh) từ Vùng 1 Chiến thuật chuyển về thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
 
Đầu năm 1962, ông được thuyên chuyển ra miền Trung để nhận chức vụ Tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 9 Bộ binh tân lập.<ref>Sư đoàn 9 Bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1962 tại Bình Định.</ref> Đến ngày 20 tháng 9 năm 1963, sau khi Sư đoàn đã được huấn luyện và bổ sung hoàn chỉnh cấp số. Ông chỉ huy Sư đoàn 9 hành quân di chuyển vào Nam, đặt Bộ Tư lệnh tại Thị xã Sa Đéc thuộc Khu 42 Chiếnchiến thuật. Tại đây ông được kiêm luôn chức vụ Tư lệnh Khu 42 chiến thuật.
 
===Kỷ luật và xuất ngũ===
Ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã không tán thành cuộc đảo chính của nhóm quân nhân do Trung tướng [[Dương Văn Minh]] lãnh đạo. Sáng sớm ngày 02 tháng 11, mặc dù đang hành quân tại Thị xã Trúc Giang (tỉnh lỵ tỉnh Kiến Hòa), ông đã đưa Sư đoàn 9 Bộ binh về Sài gòn với ý định giải cứu Tổng thống Diệm lần thứ hai. Tuy nhiên lần này ông đã bị Đại tá [[Nguyễn Hữu Có]] (người vừa thay thế Đại tá [[Bùi Đình Đạm]] giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh), đem quân chặn ở ngã ba Trung Lương và khu vực bến phà Mỹ Thuận ở sông Tiền. Các đơn vị thuộc Sư đoàn 7 đã rút hết những chiếc phà ở bờ Namnam thuộc tỉnh Vĩnh Long về hết bờ Bắcbắc thuộc tỉnh Định Tường, đồng thời phong tỏa luôn bến phà Rạch Miễu giữa Thị xã Mỹ Tho (Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường) và Thị xã Trúc Giang (Kiến Hòa), không cho quân Sư đoàn 9 Bộ binh vượt sông Tiền Giang. Sứ mạng không thành và kết quả là ngày 6 tháng 11, ông được gọi về trình diện gấp [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng quân nhân cách mạng]]. Sau đó ông phải ra trước Hội đồng Kỷ luật Quân đội. Ông bị cách chức và "nghỉ dài hạn không lương", tạm thời không còn được tham gia bất cứ một việc gì trong quân đội nữa (hình thức sa thải khỏi quân đội).
 
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, mặc dù đang ở trong tình trạng "nghỉ dài hạn không lương" và bị cách chức, ông đã cùng với Thiếu tướng [[Lâm Văn Phát]], Đại tá [[Phạm Ngọc Thảo]] và một số sĩ quan tham gia cuộc chỉnh lý lật đổ Quốc trưởng [[Nguyễn Khánh]]. Chính ông đã vạch ra kế hoạch và cùng Trung tá [[Lê Hoàng Thao<ref>Trung (Trunh, '''Quân lực VNCH)|Lê Hoàng Thao''', đương]]<ref>Đương nhiệm Tỉnh trưởng Long An (nguyên Tỉnh trưởng Kiến Hòa 1959-1961), giải ngũ năm 1965</ref> đưa Lực lượng Địa phương quân từ tỉnh Long An về chiếm Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ đô (trại Lê văn Duyệt) trong vòng 48 giờ. Cuộc chỉnh lý thất bại vì không được người Mỹ cũng như đa số sĩ quan cao cấp trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa ủng hộ, ông đã tẩu thoát ngay sau ngày 20 tháng 2. Ông bị Tòa án Quân sự vùng 3 chiến thuật kết án "tử hình khiếm diện". Cuối tháng 5, ông bị bắt tại một Giáo xứ ở vùng Xóm Mới, quận Gò Vấp thuộc tỉnh Gia Định, ngoại ô Thành phố Sài Gòn. Tòa án Quân sự Mặt trận điều chỉnh lại bản án "tử hình khiếm diện" và kết án ông bị tù chung thân, giam ông tại Đề lao Chí Hòa với hai tội danh: Chuyên viên đảo chính và Sửsử dụng quân đội bất hợp pháp, đồng thời Hội đồng Kỷ luật Quân đội chính thức cho ông giải ngũ vĩnh viễn. Năm 1967, ông được trả tự do nhân ngày Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] ban hành Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa (1 tháng 7 năm 1967).
 
==1975==
Sau ngày 30 tháng 4, ông trình diện Chính quyền Quân quản Cách mạng và bị đưa đi tù lưu đày từ Nam ra Bắc, cho đến cuối năm 19881980 ông mới được trả tự do. Sau khi được ra khỏi tù, ông và gia đình bị đưa đi lập nghiệp tại một vùng kinh tế mới thuộc một tỉnh ở miền đông Nam phần.
 
Cuối năm 1980, sau khi được thả, ông và gia đình bị đưa đi lập nghiệp tại một vùng kinh tế mới thuộc một tỉnh ở miền Đông Nam phần.
 
Giữa năm 1981, ồng cùng 2 người con vượt biên bằng đường biển đến Trại tị nạn Ở Thái Lan. Tại đây ông và các con xin được đi định cư ở Pháp. Sau đó ông đã bảo lãnh những thành viên còn lại của gia đình cùng sang Pháp đoàn tụ.
Hàng 52 ⟶ 50:
 
==Tham khảo==
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thuy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
* Đại tá Bùi Dzinh, Thủ khoa Khóakhóa 3 trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt.
* Trang quân sự bổ túc.
 
==Liên kết==
- [http://sd9bb.tripod.com/ Sư đoàn 9 Bộ Binh].<br/>
- [https://www.youtube.com/watch?v=hvOhj1KgsEY&feature=related Lễ mãn khóa 3 Trần Hưng Đạo ngày 25/6/1951] tại trường Võ Bị Liên quân Đà Lạt - Tân Thiếu úy Bùi Dzinh nhận kiếm Thủ khoa từ tay Quốc trưởng Bảo Đại.
 
[[Thể loại:Sinh 1929]]