Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuồng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Các đoàn Tuồng chuyên nghiệp: replaced: cả 3 → cả ba using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:Hát bội Lã Bố.JPG|nhỏ|200px|phải|Diễn viên Tả Giang trong vai [[Lữ Bố]], vở ''Phụng Nghi Đình'' 1960 diễn ở Sài Gòn]]
'''Tuồng''', tức '''hát bộ''', còn gọi là '''hát bội''' hay '''luông tuồng''' là một loại vănkịch nghệ trình diễnhát cổ truyền ở [[Việt Nam]].
 
== Lịch sử ==
Theo nhiều học giả, Tuồng xuất phát từ ca vũ dân tộc Việt Nam, song trong quá trình phát triển, Tuồng đã tiếp nhận nhiều trình thức biểu diễn và hóa trang của Hí Kịch Trung Quốc.
[[Tập tin:Costumes de théatre, à Hué chefs guerriers.jpg|nhỏ|phải|Diễn viên trong tuồng cung đình ở Huế, hình vẽ năm 1874]]
Hầu hết các học giả nghiên cứu kinh kịch [[Trung Quốc]] đều xác nhận [[kinh kịch]] là loại [[kịch]] của [[nhà Thanh|Thanh triều]] tại kinh thành [[Bắc Kinh]], tức "Bắc Kinh kịch nghệ". Còn hát bộ của Việt Nam là hát diễn tương tự kinh kịch nhưng theo "Kinh điển kịch lệ". "Bộ" đây có nghĩa là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng ''bộ diễn''. Vì vậy mới gọi là "hát bộ", "diễn bộ", "ra bộ". Gọi là "hát bội" bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người. Theo nhà nghiên cứu [[Vũ Khắc Khoan]], cả hai tên gọi ấy đều đúng.<ref>Phần giải thích hát bội, căn cứ theo Vũ Đức Sao Biển, tr. 92.</ref>
 
Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] năm 1005, một kép hát [[Người Trung Quốc|người Hoa]] tên là [[Liêu Thủ Tâm]] đến [[Hoa Lư]] và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên [[nhà Tống]] và được vua [[Lê Long Đĩnh]] thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.<ref name="a">"Hát bội". ''Thế giới Tự do'' Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25</ref>
 
Sang thời [[nhà Trần]], Hưng Đạo Đại vương [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] bắt được một tên quân [[nhà Nguyên]] tên là [[Lý Nguyên Cát]] vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở ''Vương mẫu hiến đào'' để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.<ref name="a" /> Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương ( đào), châu tử ( tướng), sửu nô ( hề),..
 
Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là [[Đào Duy Từ]] ([[1572]]-[[1634]]). Ở [[Miền Trung (Việt Nam)|Miền Trung]] Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.
 
Vào thời Nguyễn, Tuồng đạt tới đỉnh cao khi được các vị vua yêu thích, cho soạn vở, mở trường đào tạo nghệ sĩ. Hàng loạt tên tuổi lớn soạn Tuồng như Đào Tấn,...đã tạo nên nhiều tác phẩm lớn. Trong dân gian, Tuồng cũng có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt ở Bình Định. Ca dao có câu
Sang [[thế kỷ 20]] với sự ra đời của [[cải lương]] và [[kịch nói]] thu hút nhiều khán giả, nghệ thuật tuồng suy yếu nhiều tuy có cố gắng phục hưng với loại ''tuồng xuân nữ'', tức là tuồng diễn theo đề tài xã hội tân thời và hát theo điệu "xuân nữ". Loại tuồng này pha phong cách [[cải lương]], đánh võ Tàu... Dù vậy giới hâm mộ tuồng càng ngày càng ít.<ref name="b">Theo Hoàng Chương, "Tóm tắt về hành trình sân khấu Việt Nam" in trong ''Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995'', Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, [[Hà Nội]], 1989.</ref>.
 
" ''Bỏ cửa bỏ nhà vì ma hát Bội''"
Ba trường phái<ref>Trần Văn Khê. tr 315</ref> lớn trong hát bội là:
 
# [[Tuồng cung đình Huế]]
Sang [[thế kỷ 20]] với sự ra đời của [[cải lương]] và [[kịch nói]] thu hút nhiều khán giả, nghệ thuật tuồng suy yếu nhiều tuy có cố gắng phục hưng với loại ''tuồng xuân nữ'', tức là tuồng diễn theo đề tài xã hội tân thời và hát theo điệu "xuân nữ". Loại tuồng này pha phong cách [[cải lương]], đánh võ Tàu... Dù vậy giới hâm mộ tuồng càng ngày càng ít.<ref name="b">Theo Hoàng Chương, "Tóm tắt về hành trình sân khấu Việt Nam" in trong ''Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995'', Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương, [[Hà Nội]], 1989.</ref>.
# [[Tuồng Quảng Nam]]
# [[Tuồng Bình Định]]
 
Ở [[Hà Nội]] vào đầu [[thế kỷ 20]] có một rạp hát riêng diễn tuồng hát bội, gọi là rạp Quảng Lạc. Lối diễn thì giống như lối tuồng miền Trung cả.<ref name="Hà"/>
 
Tới những năm khi Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|VNDCCH]] thành lập, ban đầu Tuồng bị coi là tàn dư phong kiến, nhưng sau đó đã được đánh giá nghiêm túc và được chính Chủ Tịch [[Hồ Chí Minh]] xem và khen ngợi, Tuồng trở thành loại hình sân khấu được công nhận là đặc sắc và được phát triển, với sự tập hợp các nghệ nhân Bắc, Trung, Nam, thành lập các đoàn hát và mở lớp truyền thụ, xuất hiện hàng loạt nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tiếp tục kế thừa và sáng tạo vốn quý của nghệ thuật Việt Nam, là một trong những loại hình sân khấu chủ yếu của Việt Nam suốt thế kỉ 20, được công chúng yêu thích.
 
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, bước vào thời kì hội nhập, từ những năm 90 của thế kỉ XX, Tuồng đang mất dần vị thế và khán giả, thiếu hụt nhân lực và có nguy cơ mai một.
 
== Diễn xuất ==
[[Tập tin:Hát cúng đình.jpg|nhỏ|250px|phải|Hát tuồng trong [[lễ Kỳ yên]] tại [[đình Mỹ Phước]] ([[Long Xuyên]]) năm [[2010]]]]
Lối diễn xuất thườngcủa đượcTuồng nặng tính ước lệ và trình thức, tức là loại sân khấu ước lệ, cách biểu diễn khuếch đại hơn sự thật ngoài đời để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ càng nhanh, khi lên sân khấu càng cần tăng cường điệu thì khán giả mới kịp nhận thấy. Kiểu cách đi đứng còn dùng để biểu lộ cái "tâm" của nhân vật thiện, ác. Nhất nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể diễn bộ "Trung" cho vai đứa "Hèn" hay đứa "Nịnh". Thậm chí lên [[ngựa]] xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nịnh thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ. Nhất là vào thời trước khi kỹ thuật âm thanh và ánh sáng chưa đáp ứng được cho nghệ thuật trình diễn, hình ảnh diễn xuất chưa thể kéo lại nhìn gần, không thể "trung cảnh", "cận cảnh", làm tăng cường độ các động tác giúp khán giả xem được toàn cảnh, dù ngồi xa hay gần [[chiếu]] diễn (sân khấu) đều nhìn thấy.
 
Tuồng đặc sắc và có tính bác học cao nhất phải kể tới Tuồng Bình Định và Tuồng Huế, với lối diễn xuất, hát múa đạt tới đỉnh cao, giàu giá trị và tinh vi.
Lối múa, đi và đứng có những động tác cách điệu, trong nghề gọi là ''bê'', ''xiên'', ''lỉa'' và ''lăn''.<ref>Trần Văn Khê. tr 304.</ref>
 
Mỗi loại nhân vật của Tuồng lại có một lối diễn khác nhau, chính diện thường ngay thẳng, cương trực, đi đứng đàng hoàng, còn phản diện thì gian xảo, láo liên, uốn éo. Nhất nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể diễn bộ "Trung" cho vai "Nịnh". Thậm chí lên [[ngựa]] xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nịnh thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ.
Nhân vật nào ra sân khấu từ cánh gà tay mặt (sinh môn) đều sống tới cuối tuồng, dẫu có bị kẻ gian hãm hại cũng không chết. Ngược lại, nhân vật nào ra sân khấu từ cánh gà bên trái (tử môn) cũng phải chết, dẫu làm tới [[Hoàng đế]] <ref>Theo Vũ Đức Sao Biển, "Hát bội [[Quảng Nam]]", tr. 93.</ref>.
 
Lối múa, đi và đứng có những động tác cách điệu, trong nghề gọi là ''bê'', ''xiên'', ''lỉa'' và ''lăn''.<ref>Trần Văn Khê. tr 304.</ref>, ''khai, ký, cầu, bẻ lông trĩ, bẻ cờ'',...
 
=== Điệu hát ===
Ngôn ngữ ca ngâm thì dùng giọng thật to, thật cao và rõ. Điệu hát quan trọng nhất trong hát bội là "nói lối", tức là nói một lúc rồi hát, thường để mở đầu cho các khúc hát khác. "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và "Ai". "Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não. Nói lối giọng Ai còn được gọi là "lối rịn". Ngoài ra còn có những "lối hằng", "lối hường", "lối giậm".
 
Hát thì có những điệu "Nam", "Khách", "thán", "oán", và "ngâm".
 
Tuồng có yêu cầu đặc biệt là phải hát " thổ tận can tràng", đòi hỏi người hát hết sức cố gắng. Về Tuồng bắc, lối hát nhẹ hơn Tuồng Nam Trung bộ. Tuồng Nam Trung bộ hát to và vang, cao nên thường gọi là Tuồng "thét"
 
Ngoài các điệu đặc trưng của mình, Tuồng còn có cả dân ca Trung bộ.
 
=== Hóa trang ===
Tuồng là loại hình sân khấu ước lệ, vậy nên cách hóa trang của Tuồng cũng đặc biệt, nhằm để thể hiện rõ các tuyến nhân vật, tương tự mục đích hóa trang của Hí kịch Trung Quốc hay Kabuki của Nhật
[[Hình:Y phục dùng trong hát tuồng.jpg|nhỏ|200px|phải|Một số y phục dùng trong hát tuồng]]
[[Hình:Hatboie9.jpg|nhỏ|200px|phải|Hai diễn viên hát bội vào đầu thế kỷ 20]]
Hát bộ là nghệ thuật mang nặng tính ước lệ. Các diễn viên hát bộ phân biệt từ mặt mũi, [[râu]] [[tóc]], áo quần để rõ kẻ trung nịnh, người sang hèn, ai thô lậu, thanh tú, ai minh chánh, gian tà. Sắc [[đỏ]] được dùng dặm mặt để biểu hiện vai trung thần; [[xám|màu xám]] là nịnh thần; [[đen|màu đen]] là kẻ chân thật; [[xanh lá cây|màu lục]] là hồn [[ma]].<ref>Trần Văn Khê. tr 305.</ref>
 
Các tuyến nhân vật của Tuồng chủ yếu là: Kép, Tướng, Đào, Đào võ, Lão,... với mỗi loại nhân vật lại có cách Hóa trang riêng
Về y trang thì võ tướng khi ra trận mặc võ giáp có cắm cờ lịnh sau lưng. Vua mặc áo [[thêu]] [[rồng]]; hậu phi mặc áo thêu [[phượng]]. Đào mặc áo [[lụa]] trắng đóng vai [[tiểu thơ]] đài các còn lụa đỏ dành cho cô dâu, v.v...
 
Nhìn thoáng qua, Hóa trang của Tuồng khá giống Hí kịch Trung Quốc, xong thực tế, các đường nét rất khác nhau.
 
Màu sắc dùng để hóa trang trên mặt phổ biến là trắng, đỏ, xanh và màu đen. Mặt trắng (diện mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh), mặt đỏ (người trí dũng, chững chạc), mặt rằn (diện mạo xấu xí, tính cách nóng nảy), mặt tròng xéo đen (tướng phản, hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay xanh là người vũ dũng), mặt mốc (xu nịnh), mặt lưỡi cày (người đoản hậu, nhát gan)...
 
Cố NSND Nguyễn Lai đã nghiên cứu, đúc kết từ một số hình ảnh mẫu hóa trang thành các loại mặt: Mặt trắng (''diện mạo đẹp đẽ, tính cách trầm tĩnh''), mặt đỏ (''người trí dũng, chững chạc''), mặt rằn (''diện mạo xấu xí, tính cách nóng nảy''), mặt tròng xéo đen (''tướng phản, hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy, nếu tròng xéo đen nền đỏ thắm hay xanh là người vũ dũng''), mặt mốc (''nịnh''), mặt lưỡi cày (''người đoản hậu, nhát gan'').<ref>{{Chú thích web|url=http://www.baobinhdinh.com.vn/datnuoc-connguoi/2012/2/122198/|title=Nhận biết dạng nhân vật trong tuồng qua kiểu vẽ mặt}}</ref>
 
Ca dao có câu
 
“''Người trung mặt đỏ, đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen, mấy sợi còi''”
 
==== Trang phục ====
Phục trang của các nhân vật Tuồng dựa theo kiểu phục trang của vua quan trong triều nếu là các vai vua quan hoặc theo kiểu phục trang của dân dã nếu là người bình thường.
 
Trang phục Tuồng có vài nét tương tự Hí kịch Trung Quốc, như mão lông [[Trĩ đỏ khoang cổ|trĩ]], cờ lệnh sau lưng, vạt che trước, tuy nhiên trang phục Tuồng vẫn gần gũi với trang phục dân tộc Việt Nam và thường đơn giản, dễ dàng cho nghệ sĩ biểu diễn có thể lăn lộn, múa.
 
Đạo cụ Tuồng thường có kiếm, đao, thương, búa, quạt, kim giản, roi ngựa,...[[Hình:Y phục dùng trong hát tuồng.jpg|nhỏ|200px|phải|Một số y phục dùng trong hát tuồng]]
 
[[Hình:Hatboie9.jpg|nhỏ|200px|phải|Hai diễn viên hát bội vào đầu thế kỷ 20]]
== Dàn nhạc ==
Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc cụ như: [[trống chiến]], [[đồng la]], kèn, [[đờn cò]] và có khi [[Sáo (nhạc cụ)|ống sáo]]. Dàn nhạc được đặt bên tay phải sân khấu (từ trong nhìn ra). Tay phải ứng với cửa "sinh" trong khi bên trái là cửa "tử".<ref>Trần Văn Khê. tr 302.</ref>
Hàng 73 ⟶ 98:
 
=== Những vở tuồng nổi tiếng ===
*''[[Gia Long]] phục quốc'' (soạn giả: [[Hoàng Cao Khải]], cuối [[thế kỷ 19]])<ref name="Hà"/>
*''Sơn Hậu''
Với các trích đoạn hay như Ôn Đình chém Tá., Kim Lân thượng thành, Đổng Kim Lân biệt mẫu, Kim Lân qua đèo
*Triệu Đình Long cứu Chúa
*''Tam nữ đồ vương'' ([[thế kỷ 17]])
Với các trích đoạn hay như Lão Tạ lăn lửa, Phương Cơ giả điên qua ải, Phàn Định Công đề cờ
* Trảm Trịnh Ân ( Bây giờ thường gọi là Đào Tam Xuân)
Với các trích đoạn hay Đào Tam Xuân đề cờ, Cao Hoài Đức rọi đèn,
*''Diễn Võ Đình'' (soạn giả: [[Đào Tấn]], [[thế kỷ 19]])
*''Ngoại tổ dâng đầu'' (soạn giả: [[Nguyễn Hiển Dĩnh]], thế kỷ 19).<ref name="a" />
*Trầm Hương các ( [[Đào Tấn]])
Với trích đoạn Đát Kỷ đoạt hồn, thường bị nhiều đoàn hát tránh diễn vì sợ ma quỷ
*''Phụng Nghi Đình''
*''Đào Phi Phụng''
Với các trích đoạn Châu Xương cấy râu
*''Lý Thiên Luông''
*''Trần Quốc Toản''
*Lý Phụng Đình
*Võ Tam Tư trảm Cáo (Hồ Nguyệt Cô hóa cáo)
*Đào Tam Xuân
*Hộ sanh đàn ( Tác giả Đào Tấn)
*Võ Tam Tư trảm Cáo (Hồ Nguyệt Cô)
Với lớp Tiết Cương chống búa, Lan Anh lạc đẻ,
*Đề Thám
*Nghêu sò ốc hến ( Tuồng hài dân gian)
*Huyền Trân Công Chúa
*An Tư công chúa
 
== Những diễn viên Tuồng nổi tiếng ==
# '''CÁC NGHỆ SĨ NHÂN DÂN'''
*NSND [[Bạch Trà (nghệ sĩ)|Bạch Trà]]
*NSND Quang Tốn
*NSND [[Ngô Thị Liễu]]
*NSND [[Nguyễn Nho Túy]] ( Đội Tảo)
*NSND [[Phạm Chương]]
*NSND [[Nguyễn Phẩm]]
*NSND Sáu Lai
*NSND [[Võ Sĩ Thừa]]
*NSND [[Nguyễn Ngọc Phương]] (Nguyên Thứ trưởng [[Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam)|Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch]], Nguyên Cục trưởng Cục NTBD, Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Lê Tiến Thọ (Nguyên Thứ trưởng Bộ VHTTDL, Nguyên Cục trưởng Cục NTBD, Nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam, Chủ tịch Hội NSSK Việt Nam)
Hàng 102 ⟶ 139:
*NSND Gia Khoản (Phó Giám đốc Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Minh Gái (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Hồng KhiềmKhiêm (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Ánh Dương (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Xuân Quý (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSND Xuân Hội ([[Nhà nhát tuồng Đào Tấn]], Bình Định)
*NSND Phương Thảo ([[Nhà nhát tuồng Đào Tấn]], Bình Định)
*
* '''2. CÁC NGHỆ SĨ ƯU TÚ'''
*NSUT Kim Cúc
** NSƯT Văn Quý (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSUT Hương Thơm
** NSƯT Ngọc Khánh (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
*NSUT Hán Văn Tình
** NSƯT Đức Mười (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Văn Thuỷ (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Hải Vân (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Bích Tần (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Lê Trần Vinh (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Kiều Oanh (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Đức Lợi (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
** NSƯT Chí Khánh (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
**
** '''3. CÁC NGHỆ SĨ TÀI NĂNG TRẺ'''
*** NSTNT Lộc Huyền (Nhà hát Tuồng Việt Nam)
 
== Những đạo diễn Tuồng nổi tiếng ==
Hàng 145 ⟶ 170:
*Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế.
*Nhà hát Tuồng Đào Tấn;
*Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh;
*Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội Tp. HCM.
*Đoàn Nghệ thuật Tuồng Thanh Hóa;
*Đoàn Tuồng thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa.