Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tuồng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 1:
[[Tập tin:Hát bội Lã Bố.JPG|nhỏ|200px|phải|Diễn viên Tả Giang trong vai [[Lữ Bố]], vở ''Phụng Nghi Đình'' 1960 diễn ở Sài Gòn]]
'''Tuồng''', tức '''hát bộ''', còn gọi là '''hát bội''' hay '''luông tuồng''' là một loại kịch hát cổ truyền ở [[Việt Nam]].
 
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Tuồng.jpeg|nhỏ|347x347px|Trích Đoạn Ôn Đình chém Tá trong vở tuồng cổ điển Sơn Hậu]]
Theo nhiều học giả, Tuồng xuất phát từ ca vũ dân tộc Việt Nam, song trong quá trình phát triển, Tuồng đã tiếp nhận nhiều trình thức biểu diễn và hóa trang của Hí Kịch Trung Quốc.
 
Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác.
Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyền thuyết ghi rằng vào thời [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] năm 1005, một kép hát [[Người Trung Quốc|người Hoa]] tên là [[Liêu Thủ Tâm]] đến [[Hoa Lư]] và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên [[nhà Tống]] và được vua [[Lê Long Đĩnh]] thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.<ref name="a">"Hát bội". ''Thế giới Tự do'' Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25</ref>
 
Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác nhưng có truyềnTruyền thuyết ghi rằng vào thời [[Nhà Tiền Lê|Tiền Lê]] năm 1005, một kép hát [[Người Trung Quốc|người Hoa]] tên là [[Liêu Thủ Tâm]] đến [[Hoa Lư]] và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên [[nhà Tống]] và được vua [[Lê Long Đĩnh]] thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.<ref name="a">"Hát bội". ''Thế giới Tự do'' Tập Tập X Số 8. Sài Gòn: Sở Thông tin Hoa Kỳ, 1961. tr 25</ref>
Sang thời [[nhà Trần]], Hưng Đạo Đại vương [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] bắt được một tên quân [[nhà Nguyên]] tên là [[Lý Nguyên Cát]] vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở ''Vương mẫu hiến đào'' để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.<ref name="a" /> Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương (đào), châu tử (tướng), sửu nô (hề),..
 
Sang thời [[nhà Trần]], Hưng Đạo Đại vương [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] bắt được một tên quân [[nhà Nguyên]] tên là [[Lý Nguyên Cát]] vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở ''Vương mẫu hiến đào'' để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.<ref name="a" /> Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương (đào), quan nhân ( kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề),..
Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là [[Đào Duy Từ]] ([[1572]]-[[1634]]). Ở [[Miền Trung (Việt Nam)|Miền Trung]] Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.
 
Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là [[Đào Duy Từ]] ([[1572]]-[[1634]]). Năm 1627, Đào Duy Từ là người đầu tiên đã mang về cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nghệ thuật tuồng.
Vào thời Nguyễn, Tuồng đạt tới đỉnh cao khi được các vị vua yêu thích, cho soạn vở, mở trường đào tạo nghệ sĩ. Hàng loạt tên tuổi lớn soạn Tuồng như Đào Tấn,...đã tạo nên nhiều tác phẩm lớn. Trong dân gian, Tuồng cũng có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt ở Bình Định. Ca dao có câu
 
Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là [[Đào Duy Từ]] ([[1572]]-[[1634]]). Ở [[Miền Trung (Việt Nam)|Miền Trung]] Việt Nam trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.
 
Vào thời Nguyễn, Tuồng đạt tới đỉnh cao khi được các vị vua yêu thích, cho soạn vở, dành nhiều ưu đãi và mở trường đào tạo nghệ sĩ. Hàng loạt tên tuổitác lớngiả soạn Tuồng như Đào Tấn,...đã tạo nên nhiều tác phẩm lớn. Trong dân gian, Tuồng cũng có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt ở Bình Định. Ca dao có câu
 
" ''Bỏ cửa bỏ nhà vì ma hát Bội''"
Hàng 21 ⟶ 25:
Tới những năm khi Chính phủ [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|VNDCCH]] thành lập, ban đầu Tuồng bị coi là tàn dư phong kiến, nhưng sau đó đã được đánh giá nghiêm túc và được chính Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] xem và khen ngợi, Tuồng trở thành loại hình sân khấu được công nhận là đặc sắc và được phát triển, với sự tập hợp các nghệ nhân Bắc, Trung, Nam, thành lập các đoàn hát và mở lớp truyền thụ, xuất hiện hàng loạt nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tiếp tục kế thừa và sáng tạo vốn quý của nghệ thuật Việt Nam, là một trong những loại hình sân khấu chủ yếu của Việt Nam suốt thế kỉ 20, được công chúng yêu thích.
 
Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, bước vào thời kì hội nhập, từ những năm 90 củacuối thế kỉ XX, Tuồng đang mất dần vị thế và khán giả, thiếu hụt nhân lực và có nguy cơ mai một.
 
== Nghệ thuật biểu diễn Tuồng ==
== Diễn xuất ==
[[Tập tin:Hát cúng đình.jpg|nhỏ|250px|phải|Hát tuồng trong [[lễ Kỳ yên]] tại [[đình Mỹ Phước]] ([[Long Xuyên]]) năm [[2010]]]]
Lối diễn xuất của Tuồng nặng tính ước lệ và trình thức, tức là loại sân khấu ước lệ, cách biểu diễn khuếch đại hơn sự thật ngoài đời để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ càng nhanh, khi lên sân khấu càng cần tăng cường điệu thì khán giả mới kịp nhận thấy. Kiểu cách đi đứng còn dùng để biểu lộ cái "tâm" của nhân vật thiện, ác. Nhất là vào thời trước khi kỹ thuật âm thanh và ánh sáng chưa đáp ứng được cho nghệ thuật trình diễn, hình ảnh diễn xuất chưa thể kéo lại nhìn gần, không thể "trung cảnh", "cận cảnh", làm tăng cường độ các động tác giúp khán giả xem được toàn cảnh, dù ngồi xa hay gần [[chiếu]] diễn (sân khấu) đều nhìn thấy.
Hàng 84 ⟶ 88:
 
== Kịch bản và đề tài ==
Vở tuồng tức bài tuồng là một thể văn riêng trong [[văn học Việt Nam]]. Lối trình bày tuồng dùng nhiều thể văn học như [[Thơ Đường|Đường thi]], [[phú]], [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]] và [[thơ#Lục bát|lục bát]] ghép với [[lễ nhạc]] và một số điệu [[múa]].<ref name="b" /> Lời văn thì nhiều khi có vần và có đối.
 
=== '''''Đề tài''''' ===
Khi một vai lên sân khấu thì mở bằng một câu ''xướng'', còn gọi là câu ''bạch'' để tự giới thiệu mình. Câu này dùng thể [[thơ Đường|thơ bảy chữ]].<ref name="Dương Quảng Hàm">Dương Quảng Hàm. ''Quốc văn trích diễm''. Paris: Institut de l'Asie du Sud-est, 1989. tráng77</ref>
Tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất '''bi hùng''' là một đặc trưng thẩm mỹ của Tuồng. Lực lượng chính nghĩa, trong những tình huống gian khổ, hiểm nguy, đã chiến đấu vô cùng dũng cảm với một tín niệm sắt đá, thủy chung, với một khát vọng rất lớn. Họ chiến đấu cho một lý tưởng tuyệt đối (phục nghiệp cho dòng vua cũ) và bằng một lòng trung thành vô hạn độ. Cuộc chiến đấu của họ đã diễn ra đầy khí thế hào hùng, gây xúc cảm thẩm mỹ mạnh mẽ. Có thể nói, Tuồng là sân khấu của những người anh hùng. Trong những hoàn cảnh đầy mâu thuẫn và xung đột bạo liệt bi ai các nhân vật chính diện của Tuồng đã vươn lên thoát khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh, hành động một cách dũng cảm, anh hùng, trở thành một tấm gương, một bài học cho người đời ngưỡng mộ noi theo.
 
Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử mà Tuồng có nhiều loại chủ đề khác nhau, nhưng chủ đề tồn tại khá lâu và chiếm được cảm tình của người xem là “'''phò vua diệt nguỵ'''”.
Khi kể chuyện thì gọi là câu ''nói'' từ bốn đến bảy chữ, có đối, gieo vần cước vận (chữ cuối cùng mỗi câu). Câu kết thì gieo [[vần trắc]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
Đó là vào thế kỷ XVII, XVIII ở Đàng Trong, giai đoạn này xuất hiện một loại kịch bản (khuyết danh) mẫu mực, thể tài thống nhất, tập trung vào chủ đề “phò vua diệt nguỵ”. Kịch bản cấu trúc rất chặt chẽ. Theo những nguyên tắc biên kịch rất vững chắc. Những vở thuộc loại này như: '''Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Giác oan, An Trào kiếm, Tam nữ đồ vương, Hồ Thạch phủ…'''
Khi muốn dứt ý thì hát câu ''vãn'', dùng thể [[lục bát]] còn muốn nhấn mạnh ý cho quyết liệt thì hát câu ''loạn'', dùng thể [[phú]] hay [[lục bát]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
Loại kịch bản này có những đặc điểm thống nhất như:
Khi buồn thì hát câu ''than'', cũng dùng [[lục bát]] trong khi vui thì hát câu ''khách'', thường là [[chữ Nho]] dùng thể [[phú]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
Về '''<u>nội dung</u>''': Nói chung là đi vào đề tài cung đình, nhưng không phải chỉ phản ánh những sự kiện trong cung đình mà là bao gồm cả những chuyện xảy ra trong quan hệ, - chủ yếu là quan hệ chính trị, - giữa các phe phái phong kiến nói chung. Chuyện kịch mở đầu thường bằng cảnh triều đình đang nằm trong một trạng thái bình yên tương đối, tuy vua đã già yếu và mầm mống phản loạn đã có, tức là đã có phe phản thần do tên thái sư dẫn đầu. Đứng về kịch mà nói, thì như thế mâu thuẫn kịch đã có từ đầu.
 
Sau đó vua băng hà, hoàng tử còn bé hoặc chưa được sinh. Tên gian thần kia bèn tiếm ngôi vua. Cũng có trường hợp, bọn gian thần tiếm ngôi vua trong lúc vua còn sống nhưng yếu thế. Nhưu thế là xung đột bắt đầu và phát triển. Tình thế ngày càng gay go, ác liệt. Bọn gian thần tiếm ngôi vua xong, xúc tiến mọi biện pháp hoặc thô bạo để trừ diệt dòng vua cũ hoặc trấn áp các phe phái đối lập. Các trung thần trải qua rất nhiều hiểm nguy gian khổ, tìm mọi cách để cứu hoàng tử khỏi nanh vuốt của kẻ thù, rồi đưa ra một nơi biên trấn, hiểm địa, chiêu binh mãi mã, sau đó dùng ngọn cờ danh nghĩa của hoàng tử về đánh hạ bọn tiếm ngôi để phục nghiệp cho dòng vua cũ. Trước khi đi đến thắng lợi cuối cùng, phe trung thần đã trải qua rất nhiều hy sinh gian khổ, kể cả thương vong, biểu hiện một khí tiết trung trinh, kiên cường vô hạn.
 
Xã hội được phản ánh trong loại tuồng này là một xã hội phong kiến đã suy tàn, giai cấp phong kiến quan liêu đã chia bè xẻ cánh, tranh giành cấu xé lẫn nhau quyết liệt. Không những thế, ngay trong bản thân nhiều gia đình đại phong kiến cũng xảy ra những sự bất đồng chính kiến trầm trọng đi đến phân biệt cha con, giữa vợ chống, giữa anh chị em ruột,… Tuy thế các mối chia rẽ nói trên tựu chung chỉ có hai phe, một phe trung với dòng vua cũ, được xem là chính thống, và một phe phản thần chống, tiếm ngôi dòng vua cũ.
 
Mâu thuẫn xã hội biểu hiện trong loại Tuồng này là mâu thuẫn phong kiến nội địa, không có ngoại xâm. Ngoại xâm nếu có cũng chỉ là chi tiết phụ và thông thường, chỉ là cái cớ để đưa tình tiết kịch phát triển mà thôi.
 
Về '''<u>cấu trúc kịch bản</u>''': Kịch bản loại tuồng này đều xây dựng theo dòng kịch tự sự phương Đông. Câu chuyện được trình bày có đầu có đuôi và theo trật tự thời gian phát triển của nó. Về mặt này nó giống như những câu chuyện cổ tích dân gian. Kịch bản được viết dưới dạng là kể một câu chuyện đã xảy ra (chứ không phải dưới dạng câu chuyện đương xảy ra). Như vậy, về mặt này nó tương ứng với loại tiểu thuyết chương hồi thời cổ.
 
Tuy vậy, loại kịch bản này chứa đựng tính xung đột rất cao. Từ xung đột giữa phe phái đối lập đi đến xung đột giữa những tính cách; xung đột nội tại của tính cách nhiều trường hợp hết sức gay gắt.
 
Mỗi kịch bản thường được chia ra làm '''ba hồi'''. Hồi I nói chung là giao đãi hoàn cảnh và nhân vật chủ yếu, nêu ra mâu thuẫn cơ bản của kịch. Hồi thứ II, xung đột nổ ra quyết liệt, phe đối lập đánh đổ phe chính diện và tạm thời chiếm ưu thế; tình huống kịch ở hồi này rất phức tạp và rắc rối. Hồi III xung đột lên cao trào, đấu tranh giữa hai phe đi đến quyết liệt cao độ rồi giải quyết cuối cùng bằng sự thắng lợi của phe chính nghĩa.
 
Cũng có vở gồm '''bốn hồi'''. Trường hợp ấy thì hồi thứ III phát triển xung đột, gây nhiều tình huống khó khăn, hồi IV xung đột lên cao và kết thúc.
 
Trong hai hồi II và III tình tiết kịch phát triển rộng và phong phú. Xung đột kịch bùng nổ, phát sinh nhiều tuyến kịch mới, ví như sau khi có biến động chính trị xảy ra trong triều đình thì tiếp theo là sự khủng bố đàn áp của phe phản động, là những mưu đồ, đối sách bí mật hoặc công khai của phe chính diện, là những nghĩ ngợi, dò xét lẫn nhau trong một số người trong phe chính diện, trước khi đi đến chỗ thực sự hiểu nhau để cộng tác và hành động, là những cuộc đấu tranh tư tưởng của những nhân vật chủ yếu giữa trung và hiếu, nghĩa vụ và tình riêng… Đây là giai đoạn phát triển tính cách rõ nhất.
 
Cấu trúc kịch bản đã khá vững vàng, chặt chẽ, có những quy luật của nó. Tuy nhiên những quy luật ấy không làm cho các kịch bản Tuồng loại này biến hoàn toàn thành công thức. Câu nhận xét về nội dung kịch bản Tuồng loại này: “vua băng, nịnh tiếm, bà thứ lên chùa… chém nịnh định đô, tôn vương tức vị”, chỉ là xuất phát từ cái nhìn sơ lược bề ngoài. Thực ra, các tác giả tuồng loại này có khá nhiều sáng tạo trong cái khuôn khổ chung ấy. Ví dụ cũng như tiếm ngôi nhưng khá nhiều hình thức khác nhau, có tên nịnh thần khi vua chết thì nhảy lên ngai ngồi luôn và tuyên bố mình là người kế vị, có tên giả di chiếu của vua cũ giao ngôi cho mình, có tên bố trí lực luợng quân sự áp đảo rồi ra lệnh cho triều đình công cử người nhiếp chính (vì hoàng tử còn bé) để đạt mục đích mình được cử, lại có đứa thấy phe vua đã yếu, mình lại đủ thế lực nên trắng trợn lên ngồi gần vua, mượn quạt vua để cầm thử, mượn áo vua mặc thử, mượn mão vua để đội thử, rồi mượn ngai vua để ngồi thử và ngồi luôn…
 
Những vở tuồng bị ràng buộc bởi những thuyết “trung quân”, “chính danh” này tồn tại khá lâu, được nhân dân yêu thích. Những lý thuyết nho giáo ở đây đã được thông qua tính dân gian, nên nội dung cũng có những biến đổi tích cực. Nổi lên trong loại tuồng này là những nhân vật đầy nghĩa khí, thuỷ chung, chịu đựng và vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy, hi sinh tất cả, suốt đời chiến đấu cho một lý tưởng lớn. Đạo đức được ca ngợi ở đây là tinh thần chiến đấu không khoan nhượng với kẻ thù, là tinh thần bền bỉ theo đuổi niềm tin chính nghĩa, tinh thần vị tha cao cả - Nội dung đạo đức ấy tất nhiên sẽ có sức sống dài lâu trong nhân dân vì nó chứa đựng tính nhân dân.
 
Tuồng tích trong vở diễn của hát bộ thường là các cổ tích, kịch bản phóng tác từ kinh điển truyện cổ Trung Hoa như ''[[Tam quốc chí|Tam Quốc Chí]]'', ''Vạn Hoa Lầu'', ''Ngũ Hổ Bình Tây''... Tuồng tích đã sẵn trong sách nên người xem phần lớn đều biết rành kịch tình và đến rạp chỉ xem kịch tính của các nghệ sĩ và đạo diễn mà thôi. Loại này cũng được xem là '''tuồng pho'''. Tuồng pho thì theo sát đạo lý, có thể tóm tắt là:
Hàng 101 ⟶ 127:
:''Huynh đệ toàn kỳ cung''.<ref name="a" />
 
Ngoài ra thì có '''tuồng hài''' với cốt truyện tự do hơn, không nhất thiết đề cao đạo lý [[tam cương]] [[ngũ thường]] như ''tuồng pho''
Ngoài ra thì có '''tuồng hài''' với cốt truyện tự do hơn, không nhất thiết đề cao đạo lý [[tam cương]] [[ngũ thường]] như ''tuồng pho'' <ref>Thông tin liên quan: Theo Vũ Đức Sao Biển, tuồng có hai thứ: Tuồng pho và tuồng đồ. 1/ Tuồng pho là những vở tuồng chính quy, lấy sự tích từ trong sử sách (phần lớn là của Trung Quốc) để viết ra, như: Phụng Nghi đình, Sơn hậu, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, v.v… Văn chương ở đây là văn chương bác học, có rất nhiều câu chữ Hán. 2/ Tuồng đồ là những vở tuồng được viết bằng chữ Nôm hay Quốc ngữ, nội dung lấy từ những sự tích văn chương trong văn học Việt Nam rồi cải biên thành tuồng. Tuồng đồ nặng về giải trí, giàu tính hài hước nên đáp ứng đông đảo thị hiếu và trình độ thưởng ngoạn của người bình dân. Thí dụ như các tuồng: Nghêu sò óc hến, Trần Bồ, Trinh thử, v.v...Các tác giả tuồng đồ thường không để lại danh tính, có lẽ vì mặc cảm cải biên từ văn chương người khác ("Hát bội Quảng Nam", tr. 92).</ref>
 
==== Hình thức thể hiện ====
Vở tuồng tức bài tuồng là một thể văn riêng trong [[văn học Việt Nam]]. Lối trình bày tuồng dùng nhiều thể văn học như [[Thơ Đường|Đường thi]], [[phú]], [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]] và [[thơ#Lục bát|lục bát]] ghép với [[lễ nhạc]] và một số điệu [[múa]].<ref name="b" /> Lời văn thì nhiều khi có vần và có đối.
 
Khi một vai lên sân khấu thì mở bằng một câu ''xướng'', còn gọi là câu ''bạch'' để tự giới thiệu mình. Câu này dùng thể [[thơ Đường|thơ bảy chữ]].<ref name="Dương Quảng Hàm">Dương Quảng Hàm. ''Quốc văn trích diễm''. Paris: Institut de l'Asie du Sud-est, 1989. tráng77</ref>
 
Khi kể chuyện thì gọi là câu ''nói'' từ bốn đến bảy chữ, có đối, gieo vần cước vận (chữ cuối cùng mỗi câu). Câu kết thì gieo [[vần trắc]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
Khi muốn dứt ý thì hát câu ''vãn'', dùng thể [[lục bát]] còn muốn nhấn mạnh ý cho quyết liệt thì hát câu ''loạn'', dùng thể [[phú]] hay [[lục bát]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
Khi buồn thì hát câu ''than'', cũng dùng [[lục bát]] trong khi vui thì hát câu ''khách'', thường là [[chữ Nho]] dùng thể [[phú]].<ref name="Dương Quảng Hàm" />
 
''Thầy tuồng'', tức [[đạo diễn]], hay còn gọi là ''nhưng tuồng'' là người chọn vở tuồng cùng cách diễn cho kép đóng đúng vai. ''Thơ tuồng'' là người thuộc lời để nhắc tuồng khi các diễn viên lên [[sân khấu]]. Kép chính thì tên trong nghề gọi là ''biện tuồng''.<ref name="a" />