Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tục thờ cá Ông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 14:
Theo lệ thì dân chài ai phát hiện được cá voi mắc cạn, tục gọi là "ông lị" thì có bổn phận chôn cất và [[để tang]] Ông như để tang chính cha mẹ mình. Xác cá được đem tắm bằng [[rượu]] rồi liệm bằng vải đỏ. Dân làng còn lấy [[giấy]] đỏ đắp vào miệng cá thấm lấy [[nước dãi]], xong đem phơi khô rồi đốt thành tro để chữa bệnh [[hen phế quản|suyễn]]. Xác cá được mai táng trong đụn cát gần biển. Người phát hiện ra cá voi mắc cạn thì được nhân dân tôn sùng và dưới triều [[nhà Nguyễn]] còn được miễn sưu dịch 3 năm.
 
Hàng năm dân làng chọn ngày "ông lị" (ngày cá Ông trôi vào bờ) làm lễ cúng giỗ theo nghi thức Nghinh Ông. Người địa phương có câu: "Thấy ông vào làng như vàng vào tủ" vì theo tín ngưỡng này, Cá Ông lụylị và trôi dạt vào làng nào, làng đó muôn đời ấm no, tai qua nạn khỏi.
 
Ba bốn năm sau khi chôn thì dân làng phải [[cải táng]], thường làm vào [[mùa xuân]] sang [[mùa hạ|hè]] rồi đem cốt cho nhập [[lăng]] và tế chung. Đối với xương cá Ông to lớn thì dân làng sẽ chờ đủ 3 năm cho xương cốt rã ra rồi mới đem vào hòm để đưa về làng thờ. Với trường hợp cá nhỏ, người ta sẽ cho trực tiếp vào hòm và đem về thờ. Khi tế cá thì dân làng cũng cúng các vong hồn ngư dân chết ngoài biển. Tế xong thì có các mục mua vui như hát "chèo ghe", đua [[thuyền thúng]], [[kéo co]], hát [[tuồng]] cùng các trò khác.