Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Định Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 18:
Khi ấy có thổ ti Sa Định Châu nổi dậy, chiếm [[Côn Minh]], phá tan phủ đệ của Kiềm quốc công [[Mộc Thiên Ba]], truy nã Mộc Thiên Ba. Lý Định Quốc trong lòng vừa buồn vừa giận, nhưng vẫn nén lòng vì muốn giữ vững đoàn kết nội bộ quân Đại Tây. Vào tháng 3, ông tiến quân hạ được [[Côn Minh]]. Tháng 4, liên tiếp phá [[Trình Cống]], [[Khúc Tĩnh]], [[Tấn Ninh]], [[Sư Tông]], [[Thông Hải]], [[Mông Tự]], đổi châu A Mê thành "[[Khai Viễn]] ". Lý Định Quốc đã lần lượt bắt giết các thủ lĩnh nổi dậy [[Nại Cách Long]], Sa Định Châu… Cuối năm, quân của ông đến [[Lâm An]], bình định xong Vân Nam. Lúc này, Lý Định Quốc có hơn 5 vạn quân, là lực lượng mạnh nhất của nghĩa quân.
 
==Liên kết Nam Minh, tận lực kháng Thanh ==
===Liên kết Nam Minh===
Tướng sĩ Đại Tây bàn định chiến lược cho chặng đường tiếp theo, Tôn Khả Vọng chủ trương tiếp tục đối phó với triều đình Nam Minh, nếu chiến sự bất lợi có thể rút về [[Hải Nam]]. Lý Định Quốc khuyên ông ta liên kết với Nam Minh cùng chống quân Mãn Thanh xâm lược, được mọi người hưởng ứng, Tôn đành phải đồng ý.
 
Năm Vĩnh Lịch thứ ba (1649), Tôn, Lý sai sứ đến Quý Châu gặp triều đình Nam Minh thương lượng việc hiệp đồng kháng Thanh, [[Quế Vương]] Chu Do Lang (vua Vĩnh Lịch) nhà Nam Minh phong Tôn Khả Vọng làm Tần Vương.
 
Năm sau, Tôn Khả Vọng phái Lý Định Quốc về Côn Minh để giữ Vân Nam. Ông ở Vân Nam đã tổ chức việc trồng trọt cày cấy, an định trật tự xã hội, đoàn kết các dân tộc thiểu số, luyện tập được hơn 3 vạn tinh binh, kiến lập nên một căn cứ kháng Thanh.
 
===Chiến thắng Quế Lâm===
Năm Vĩnh Lịch thứ 6 (1652), hậu phương đã ổn định, Tôn Khả Vọng sai Lý Định Quốc, Lưu Văn Tú chia hai hướng đông, bắc tiến quân. Lý tiến về phía đông đánh các miền Quế ([[Quảng Tây]]), Tương ([[Hồ Nam]]); Lưu tiến về phía bắc đánh Thục ([[Tứ Xuyên]]).
 
Lý Định Quốc đặt ra 5 điều ước pháp: không giết người, không gian dâm, không cướp tiền của, không làm thịt trâu cày, không đốt nhà. Ông đưa quân vào [[Tương Đàm]], sau khi thu phục phần lớn châu huyện, lại lợi dụng sự kiêu ngạo khinh địch của Định Nam vương [[Khổng Hữu Đức]], bất ngờ tiến xuống [[Quế Lâm]]. Tháng 5, ông đánh bại quân Thanh, trong hai đêm liền tiến xuống [[Vũ Cương]], phá [[Bảo Khánh]], thế như chẻ tre.
Dòng 48:
Quân Minh cắt thủ cấp của ông ta dâng lên cho Lý Định Quốc. Toàn quân hoan hô như sấm, cùng hát bài Mãn Giang Hồng.
 
Người thời ấy có thơ rằng: ''Đông châu thôi xán khảm đâu mâu, thiên kim cánh cấu đại vương đầu'' (chữ Hán: 东珠璀璨嵌兜鍪,千金竟购大王头). Đánh bại tinh binh Bát Kỳ, giết được chủ soái của giặc, danh tiếng của quân đội Lý Định Quốc vang dội khắp nơi. Chiến thắng này đã cổ vũ mạnh mẽ, làm sống lại hy vọng đánh đuổi Mãn Thanh, khôi phục Trung Nguyên.
 
===Chống mất đoàn kết===
Dòng 58:
 
===Thất bại Triệu Khánh===
Khi đánh Quảng Tây, Lý Định Quốc đã viết thư yêu cầu [[Trịnh Thành Công]] cùng giáp công Quảng Đông. Tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 7 (1653), ông đưa quân xuất phát từ huyện [[Hạ (huyện)|Hạ]], Quảng Tây, chiếm lĩnh vùng đất chiến lược quan trọng Ngô Châu. Ngày 14 tháng 3, quân Minh chiếm được Đức Khánh, ngày 25 tiến đến dưới thành Triệu Khánh. Định Quốc một mặt liên lạc với Trịnh Thành Công, một mặt chia quân chiếm lĩnh [[Tứ Hội]], [[Quảng Ninh (Trung Quốc)|Quảng Ninh]].
 
Ngày 26, Lý Định Quốc đích thân đến dưới thành Triệu Khánh, chỉ huy toàn quân đánh mạnh. Quân Minh bắc thang đánh thành, đào địa đạo vào thành. Quân Thanh kháng cự ngoan cường, trong thành ngài thành, thây phơi đầy đất, máu chảy thành sông. Thượng Khả Hỉ đích thân đưa quân chủ lực đến cứu viện, quân Trịnh vẫn chưa đến, Thượng Khả Hỉ có thể toàn lực đối phó với quân Minh.
Dòng 69:
Lý Định Quốc cho rằng đông tây giáp công Quảng Đông, mình từ Quảng Tây theo đường bộ, Trịnh Thành Công vượt Triều Huệ bằng đường thủy là kế hoạch tốt nhất. Ông lại cho sứ giả đến Hạ Môn liên hệ với Trịnh Thành Công, thêm nữa còn có chiếu sắc của triều đình Vĩnh Lịch lệnh cho quân Minh ở Lưỡng Quảng toàn lực phối hợp.
 
Tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 8 (1654), Lý Định Quốc từ [[Liễu Châu]], Quảng Tây tiến vào Quảng Đông, ra [[Hoành Châu]], vượt [[Linh Sơn]] lấy [[Hợp Phố|Liêm Châu]], hạ [[Cao Châu]], [[Lôi Châu]]. Quân Thanh không dám nghênh chiến. Định Quốc lại phái sứ giả đến Hạ Môn đốc thúc Trịnh Thành Công đưa quân đến Quảng Đông, hẹn nhau hội sư ở Tân Hội. Ông ở Cao Châu hơn 1 tháng mà Trịnh Thành Công vẫn không xuất binh, bèn gởi thư cho Trịnh khuyên ông ta nên lấy đại nghiệp kháng Thanh phục Minh làm trọng, không nên tính toán được mất cá nhân, lời lẽ rất khẩn thiết.
 
Tháng 6, quân Trịnh vẫn không đến, Lý Định Quốc nhiễm bệnh phải ở lại Cao Châu tịnh dưỡng. Giữa tháng 8, quân Thanh tăng cường trọng binh cho vị trí chiến lược trọng yếu [[Tân Hội]], thủy quân Thanh chiếm lấy cửa sông, cắt đứt thông đạo giữa Quảng Châu và Tân Hội.
Dòng 78:
 
===Được phong Tấn Vương===
Tháng giêng năm Vĩnh Lịch thứ 10 (1656), vì Tôn Khả Vọng chuyên quyền, Lý Định Quốc đến [[An Long]] đón Quế Vương về Côn Minh tỉnh [[Vân Nam]], nhằm tránh phạm vi thế lực của Khả Vọng ở tỉnh [[Quý Châu]]. Ông và Lưu Văn Tú quyết định tạm thời lấy Vân Nam cống viện làm hành cung. Nhờ có công hộ giá, ông được Quế Vương phong làm Tấn Vương.
 
Lý Định Quốc dùng lễ đưa gia quyến của Tôn Khả Vọng ở Côn Minh đến Quý Dương. Nhưng Tôn Khả Vọng vẫn không tỉnh ngộ, tháng 8 năm sau, ông ta điều 14 vạn quân đến đánh Côn Minh. Khi ấy, trong tay hai người Lý, Lưu chỉ có không quá 3 vạn quân. Nhưng những bộ hạ của Tôn Khả Vọng như [[Bạch Văn Tuyển]], [[Phùng Song Lễ]],..v..v.. xuất thân từ quân Đại Tây đều đã từng cùng với Lý Định Quốc đồng cam cộng khổ, những tướng lĩnh xuất thân từ quân Nam Minh thì lòng vẫn hướng về triều đình Vĩnh Lịch.
Dòng 88:
Khả Vọng không còn đường chạy, phải đến đầu hàng [[Hồng Thừa Trù]] nhà Thanh. Ông ta được phong làm Nghĩa vương, được đãi ngộ rất trọng hậu, nên đem hết hình thế sông núi, quân sự của 2 tỉnh Vân Quý báo cáo lên triều đình nhà Thanh.
 
Năm Vĩnh Lịch thứ 11 (1657), quân Thanh chia 3 đường tiến đánh Vân, Quý, nhà Thanh triệt để lợi dụng địa vị và ảnh hưởng của Khả Vọng trong quá khứ, khiến cho quân Minh lần lượt thua chạy, không ít tướng cũ của quân Đại Tây đã đầu hàng nhà Thanh.
 
Quân Thanh càng lúc càng đến gần, Côn Minh nguy ngập. Lý Định Quốc muốn dời đô về [[Kiến Xương]], Tứ Xuyên, tránh xa chủ lực của địch, chuyển về vùng phía sau địch, hiệp đồng tác chiến với một lực lượng khởi nghĩa khác là [[Quỳ Đông thập tam gia|Quỳ Đông Thập Tam Gia]], hòng xoay chuyển cục diện. Nhưng Quế Vương lại nghe lời sàm tấu, bỏ chạy về phía tây. Việc này khiến quân Minh mất sạch ý chí chiến đấu, nhiều người đầu hàng nhà Thanh.
 
===Mai phục Ma Bàn===
Tháng 2 năm Vĩnh Lịch thứ 13 (1659), quân Thanh vượt Nộ Giang bức đến gần Đằng Việt <ref>Nay là [[Đằng Xung]], Vân Nam</ref>, nơi ấy là biên cảnh của nhà Minh, đường lối quanh co, nhỏ hẹp, chỉ lọt vừa một thân ngựa.
 
Lý Định Quốc suy tính quân Thanh liên tiếp thắng lợi tất nhiên sẽ khinh suất tiến lên. Ông quyết định bố trí mai phục ở một con đường nhỏ, hai bên cây cối um tùm, men theo núi Ma Bàn, cách Nộ Giang 20 dặm về phía tây; lấy Thái An bá Đậu Danh Vọng làm tuyến mai phục thứ nhất, Quảng Xương hầu [[Cao Văn Quý]] làm tuyến mai phục thứ hai, Vũ Tĩnh hầu [[Vương Quốc Tỉ]] làm tuyến mai phục thứ ba; chôn địa lôi ở trong hang, hẹn rằng: Địch vào hết, tuyến mai phục thứ nhất xông ra; nổ địa lôi, tuyến mai phục thứ hai và thứ ba xông ra. Đầu đuôi cùng đánh, giết sạch địch quân. Cả thảy có 6000 quân mai phục, giắt lương khô bên mình, nhằm tránh nổi lửa thổi cơm sẽ khiến quân địch phát hiện.
Dòng 106:
Nhưng Quế Vương chỉ muốn cầu an, cam tâm ở lại Miến Điện. Khi quân Minh và Miến Điện xảy ra xung đột, Quế Vương hạ chiếu cho Lý Định Quốc rút quân trở về. Định Quốc xem chiếu mà đau xót, than rằng: "Đại Minh hết rồi!" Bộ tướng thừa cơ trách Quế Vương bất nghĩa, khuyên ông đầu hàng nhà Thanh, Định Quốc cự tuyệt.
 
Lý Định Quốc không rút quân mà vẫn quanh co ở biên giới Miến Điện. Ngày 1 tháng 12 năm Thuận Trị thứ 18 (1661), quân Thanh tiến sát biên giới Trung – Miến, người Miến đem cha con Chu Do Lang dâng cho nhà Thanh. Ngô Tam Quế sai người thắt cổ Chu Do Lang trong một tòa miếu nhỏ tại Côn Minh.
 
Lý Định Quốc nghe tin thì lăn ra mà khóc. Khi ấy, quân đội của ông đóng ở nơi hẻo lánh, lương thực thuốc men thiếu thốn, bệnh tật mà chết quá nửa. Định Quốc vì lao lực mà phát bệnh. Ngày 21 tháng 7 năm 1662, thời Khang Hi thứ nhất (1662), ông mất, hưởng thọ 43 tuổi.
 
Trước lúc lâm chung, Lý Định Quốc giao binh quyền lại cho bộ tướng Cận Thống Vũ, lệnh cho con trai mình là Lý Tử Hưng bái Thống Vũ làm cha nuôi, còn nói rằng: "'''''Thà chết nơi hoang vắng, chứ không hàng''''' (chữ Hán: 寧死荒外,毋降也, ''Ninh tử hoang ngoại, vô hàng dã)!"'') Không lâu sau, Thống Vũ bệnh mất, con trai Lưu Văn Tú là Lưu Chấn lĩnh binh quy phụ nhà Thanh. Tháng 9 năm Khang Hi thứ 2 (1663), Lý Tử Hưng cũng làm trái lời dạy của cha, dâng biểu đầu hàng nhà Thanh.
 
==Đánh giá==