Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đại học Quốc gia Seoul”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 56:
Trong suốt thời [[Triều Tiên thuộc Nhật]], Đại học Hoàng gia Keijō được thành lập với tư cách một trong chín trường đại học của hoàng gia Nhật Bản. Sau [[Thế chiến thứ hai]] và Triều Tiên giành độc lập, tên trường đại học đổi từ ''Keijō Teikoku Daigaku'' (京城帝国大学) thành ''Gyeongseong Daehak'' (경성대학, 京城大學, Đại học Gyeongseong). Những kí tự [[Hanja]] đã được sử dụng trong tên trước đây, được phát âm trong bài đọc tiếng Hàn và thuộc tính "đế quốc" đã được gỡ bỏ. Việc đổi tến thành "Quốc gia" dựa tên chủ nghĩa quốc tế mang tính học thuật mà Hoa Kỳ tuyên bố.
 
==ThamThành khảolập==
Đại học Quốc gia Seoul được thành lập vào ngày 27 tháng 8 năm 1946 bằng cách sáp nhập 10 cơ sở giáo dục đại học xung quanh khu vực Seoul. Các trường đã được sáp nhập là:
 
* Trường cao đẳng Gyeongseong (''Gyeongseong Daehakgyo'', 경성대학)
* Trường Sư phạm Gyeongseong (''Gyeongseong Sabeomhakgyo'', 경성사범학교)
* Trường sư phạm nữ Gyeongseong (''Gyeongseong Yeoja Sabeomhakgyo'', 경성여자사범학교)
* Trường dạy nghề luật Gyeongseong (''Gyeongseong Beophak Jeonmunhakgyo'', 경성법학전문학교)
* Trường dạy nghề công nghiệp Gyeongseong (''Gyeongseong Gongeop Jeonmunhakgyo'', 경성공업전문학교)
* Trường nghề khoáng sán Gyeongseong (''Gyeongseong Gwangsan Jeonmunhakgyo'', 경성광산전문학교)
* Trường nghề y học Gyeongseong (''Gyeongseong Euihak Jeonmunhakgyo'', 경성의학전문학교)
* Trường nghề nông nghiệp Suwon (''Suwon Nongnim Jeonmunhakgyo'', 수원농림전문학교)
* Trường nghề kinh tế Gyeongseong (''Gyeongseong Gyeongje Jeonmunhakgyo'', 경성경제전문학교)
* Trường nghề [[Nha khoa]] Gyeongseong (''Gyeongseong Chigwa Euihak Jeonmunhakgyo'', 경성치과의학전문학교)
 
Hiệu trưởng đầu tiên là Harry Bidwell Ansted.<ref>{{cite web|url=http://www.useoul.edu/presidents/1|title=1st Harry B. ANSTED - History of Office - President's Office - About SNU - SNU|author=SEOUL NATIONAL UNIVERSITY|publisher=|accessdate=15 July 2015}}</ref> Trong hơn một năm rưỡi, đã có một phong trào biểu tình của sinh viên và giáo sư chống lại pháp luật của chính quyền quân sự Hoa Kỳ tại các trường cao đẳng sáp Hàn Quốc được sáp nhập. Cuối cùng, 320 giáo sư đã bị sa thải và hơn 4950 sinh viên rời khỏi trường. Hiệu trưởng thứ hai của trường là Lee Choon-ho ({{lang|ko|이춘호, 李春昊}}), bắt đầu đảm nhiệm từ tháng 10 năm 1947. Trường Luật được thành lập bằng việc sáp nhập khoa luật của Đại học Kyŏngsŏng với trường luật Kyŏngsŏng. SNU đã thu nạp trường Dược Seoul vào tháng 9 năm 1950 thành Đại học Dược. Trường này trước đây là một cơ sở tư nhân .<ref>{{cite web |url=http://www.snupharm.ac.kr/eng/about/about_02.asp |title=History of the College of Pharmacy|work=SNU College of Pharmacy website |accessdate=July 24, 2005}}</ref>
 
Trong Chiến tranh Triều Tiên, trường đại học đã bị Bắc Triều Tiên chiếm đóng và vụ thảm sát Bệnh viện Đại học Quốc gia Seoul xảy ra,<ref>{{cite web
| url = http://www.snuh.org/pub/snuh/sub02/sub01/1179268_3957.jsp
| title = 서울대병원, 6.25전쟁 참전 용사들을 위한 추모제 가져
| publisher = [[Seoul National University Hospital]]
| date = 2010-06-04
| accessdate = 2012-07-22
}}</ref> sau đó tạm thời sáp nhập với các trường đại học khác của Hàn Quốc, đặt tại [[Busan]].
 
==Tham khảo==
{{Tham khảo|2}}