Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lydia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm thể loại, Executed time: 00:00:14.8328484 using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 22:
| data8 = [[Tập tin:Map Anatolia ancient regions-en.svg|300px|Location of Lydia within Anatolia]]
}}
'''Lydia''' ([[Assyria]]: ''Luddu''; {{lang-el|Λυδία}}, {{lang-tr|Lidya}}) là vương quốc thời kì đồ sắt ở phía tây [[Tiểu Á]]. Địa bàn của vương quốc này hiện nay thuộc các tỉnh phía đông của [[Thổ Nhĩ Kỳ]], gồm các tỉnh Uşak, Manisa và İzmir. Cư dân Lydia nói ngôn ngữ Anatolia.
 
Ở thời kỳ cực thịnh, lãnh thổ của Lydia bao phủ khắp phía tây vùng Anatolia với thủ đô là Sardis<ref>Rhodes, P.J. ''A History of the Classical Greek World 478-323 BC''. 2nd edition. Chichester: Wiley-Blackwell, 2010, p. 6</ref>. Năm 546 TCN, vương quốc Lydia bị Ba Tư thôn tính và Tabalus, được bổ nhiệm bởi [[Cyrus Đại Đế]], là Tổng đốc Ba Tư đầu tiên (546 - 545 TCN). Về sau, Lydia trở thành một tỉnh của [[La Mã]].
 
== Tên gọi Lydia ==
Từ "Lydia" (người dân Ludia tự gọi mình là Śfard) xuất hiện trong hàng loạt văn khắc bằng ký tự Aramaic Saparda, Babylonian Sapardu, Elamitic Išbarda, Hebrew<ref> Tavernier, J. (2007). ''Iranica in the Achaemenid period (c. 530-330 BC): Lexicon of Old Iranian Proper Names and Loanwords, attested in Non-Iranian Texts''. Peeters. p. 91. <nowiki>ISBN 90-429-1833-0</nowiki>.</ref>. Thủ đô Sardis của vương quốc này, được xây dựng vào thế kỷ VII TCN.
 
Về thành phần dân cư Lydia thì có nhiều giả thuyết khác nhau. Trong quyển sách của mình, [[Herodotos]] nói rằng người Etruscans đến từ Lydia, lặp đi lặp lại trong bài thơ sử thi của Virgil là Aeneid, và ngôn ngữ giống như Etruscan được tìm thấy trên bia đá Lemnos từ đảo Lemnos của biển Aegea. Một nghiên cứu mới nhất về di truyền học cho rằng, người Lydia có nhiều điểm tương đồng với người Etruscan - tổ tiên của [[Đế quốc La Mã]]<ref>"Ancient Etruscans Were Immigrants From Anatolia, Or What Is Now Turkey". ''ScienceDaily''. </ref>
 
== Lãnh thổ của Lydia ==
Lãnh thổ của vương quốc Lydia trải dài qua nhiều thế kỷ. Lúc đầu, Lydia chỉ bó hẹp ở các vùng Mysia, Caria, Phrygia và bán đảo Ionia. Thời nhà vua Alyattes II và con trai ông ta là [[Croesus]], vương quốc Lydia kiểm soát toàn bộ vùng châu Á ở phía tây sông Halys, ngoại trừ Lycia. Bị đế quốc Ba Tư và La Mã thôn tính, Lydia chỉ còn lại phần lãnh thổ là vùng đất giữa, giáp Mysia và Caria ở một bên và Phrygia và Aegean ở bên kia.
 
== Ngôn ngữ Lydia ==
Tiếng Lydia thuộc ngữ hệ Ấn - Âu và nằm trong gia đình ngôn ngữ Anatolia, có liên quan đến tiếng Luwian và Hittite. Cùng thuộc gia đình ngôn ngữ Anatolia, tiếng Lydia sử dụng rộng rãi các tiền tố và các phân tử ngữ pháp tạo thành các chuỗi mệnh đề với nhau<ref>http://www.allaboutturkey.com/lidya.htm</ref>. Vì nhiều lý do khác nhau, tiếng Lydia đã xuất hiện nhiều nhóm phụ âm không điển hình của ngôn ngữ Đông Âu. Tiếng Lydia bị tuyệt chủng vào thế kỷ I TCN.
 
== Lịch sử ==
Lydia phát triển sau sự suy tàn của đế chế Hittite vào thế kỷ XII TCN. Lúc đầu, vùng đất của người Lydia đang sinh sống có tên Arzawa, một vùng đất cổ xưa nằm ở phía tây của Anatolia. Vùng đất Arzawa xuất hiện vào nửa sau thiên niên kỷ II TCN, nằm ở bờ sông Kestros. Thủ phủ là Apasa (sau thì đổi thành Ephesus)<ref>J. David Hawkins (1998). ‘Tarkasnawa King of Mira: Tarkendemos, Boğazköy Sealings, and Karabel.’ ''Anatolian Studies'' 48:1–31</ref>
 
Thế kỷ XV - XIV TCN, Arzawa lập liên minh với Ai Cập thông qua sự kiện "bức thư Arzawa" - thực chất là văn kiện liên minh được ký kết bởi người cai trị Arzawa là Tarhundaradu và Pharaoh [[Amenophis III]]. Theo tài liệu của Hittites, Arzawa tham gia liên minh chống Hittite cùng với khu vực Millawanta (Milet) dưới thời người cai trị Ahhijawa<ref>Bakker, edited by Egbert J. (2010). ''A Companion to the Ancient Greek Language''. Chichester: John Wiley & Sons. pp. 217–218. <nowiki>ISBN 9781444317404</nowiki>.</ref> vào năm 1320 TCN. Bất chấp sức kháng cự của nhân dân Arzawa, quân đội Hittites do vua Mursili II (1321 - 1295 TCN) chỉ huy đã chinh phục được Arzawa vào năm 1300 TCN. Người lãnh đạo cuối cùng của Arzawa là Piyamaradu phải bỏ trốn sang Hy Lạp<ref>Bakker, edited by Egbert J. (2010). ''A Companion to the Ancient Greek Language''. Chichester: John Wiley & Sons. pp. 217–218. <nowiki>ISBN 9781444317404</nowiki>.</ref>. Vùng Arzawa sau đó bị chia thành 3 vùng:
* Vương quốc Mira,
* Hapalla (phiên âm khác nhau),
* "Đất sông Seha"
Dưới thời con trai của Mursili II là Muwatalli II (1295 – 1272 TCN), vùng đất Troyes bị biến thành chư hầu của Hittites. Sau đó, Muwatalli II đem quân tấn công Ai Cập và đánh nhau với pharaoh [[Ramesses II]] tại [[Trận Kadesh]].
 
Đến thế kỷ XII TCN, đế chế Hittites suy yếu dưới thời hai anh em, cũng là hai vị vua cuối cùng là Arnuwanda III và Suppiluliuma II (1209 - 1178 TCN). Bị các đội quân của các dân tộc vùng biển tấn công liên tiếp, vua cuối cùng là Suppiluliuma II (1207 - 1178 TCN) phải rời bỏ thủ đô Hattusa<ref>Jürgen Seeher, (2001), ''Die Zerstörung der Stadt Hattusa'', in G. Wilhelm, 623–34.</ref>. Lợi dụng sự khủng hoảng của đế chế Hittites, nhân dân Arzawa nổi dậy giành độc lập và lập quốc.
 
Sự thành lập vương quốc Lydia không được biết một cách rõ ràng, người ta chỉ biết sự thành lập Lydia qua thần thoại Hy Lạp và các sách sử của Herodotos. Theo Herodotos, vua đầu tiên của Lydia là Manes, con trai của Zeus với Gaia. Dưới thời người kế vị ông là Atys<ref>Herodotus, George Rawlinson, Sir Henry Creswicke Rawlinson, Sir John Gardner Wilkinson (1859–1861). ''The history of Herodotus: a new English version, ed. with copious notes and appendices, illustrating the history and geography of Herodotus, from the most recent sources of information; and embodying the chief results, historical and ethnographical, which have been obtained in the progress of cuneiform and hieroglyphical discovery''. D. Appleton & Co., New York City.</ref>, Lydia đánh chiếm Tyrrhenia (tên cũ là Umbria)
 
==Các vị thần của Lydia==