Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lydia”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 38:
 
== Lịch sử ==
 
=== Thời Arzawa (thiên niên kỷ II TCN - thế kỷ XII TCN) ===
Lydia phát triển sau sự suy tàn của đế chế Hittite vào thế kỷ XII TCN. Lúc đầu, vùng đất của người Lydia đang sinh sống có tên Arzawa, một vùng đất cổ xưa nằm ở phía tây của Anatolia. Vùng đất Arzawa xuất hiện vào nửa sau thiên niên kỷ II TCN, nằm ở bờ sông Kestros. Thủ phủ là Apasa (sau thì đổi thành Ephesus)<ref>J. David Hawkins (1998). ‘Tarkasnawa King of Mira: Tarkendemos, Boğazköy Sealings, and Karabel.’ ''Anatolian Studies'' 48:1–31</ref>
 
Hàng 48 ⟶ 50:
Đến thế kỷ XII TCN, đế chế Hittites suy yếu dưới thời hai anh em, cũng là hai vị vua cuối cùng là Arnuwanda III và Suppiluliuma II (1209 - 1178 TCN). Bị các đội quân của các dân tộc vùng biển tấn công liên tiếp, vua cuối cùng là Suppiluliuma II (1207 - 1178 TCN) phải rời bỏ thủ đô Hattusa<ref>Jürgen Seeher, (2001), ''Die Zerstörung der Stadt Hattusa'', in G. Wilhelm, 623–34.</ref>. Lợi dụng sự khủng hoảng của đế chế Hittites, nhân dân Arzawa nổi dậy giành độc lập và lập quốc.
 
=== Vương triều Atyads (Tantalids) ===
Sự thành lập vương quốc Lydia không được biết một cách rõ ràng, người ta chỉ biết sự thành lập Lydia qua thần thoại Hy Lạp và các sách sử của Herodotos. Theo Herodotos, vua đầu tiên của Lydia là Manes, con trai của Zeus với Gaia.
 
Dưới thời người kế vị ông là Atys<ref>Herodotus, George Rawlinson, Sir Henry Creswicke Rawlinson, Sir John Gardner Wilkinson (1859–1861). ''The history of Herodotus: a new English version, ed. with copious notes and appendices, illustrating the history and geography of Herodotus, from the most recent sources of information; and embodying the chief results, historical and ethnographical, which have been obtained in the progress of cuneiform and hieroglyphical discovery''. D. Appleton & Co., New York City.</ref>, Maeonia đánh chiếm Tyrrhenia (tên cũ là Umbria). Thời vua thứ ba là Lydus, nhà vua đổi tên vương quốc từ Maeonia (tên ban đầu, sau khi giành độc lập) thành vương quốc Lydia. Để tránh việc nhân dân bất tin vào chính quyền mới, nữ hoàng Omphale (vợ của vua tiền nhiệm Tmolus) thành lập triều đại Tylonids (Heraclids) và đưa con trai là Agron (1221–? TCN) lên ngôi cho triều đại mới.
 
=== Vương triều Tylonids (Heraclids) ===
Triều đại mới này đánh dấu một loạt các bất ổn khi có tới 17 vị vua thay nhau trị vì. Cuối cùng vào năm 795 TCN, Ardys I (Ardysus I) (795–759 TCN) kế ngôi làm vị thứ 19 của triều đại này. Herodotos kể qua hai vị vua kế tiếp là Alyattes I (759–745 TCN) (con của Ardys I) và Meles (745–733 TCN) (con của Alyattes I). Đến thời vua cuối cùng là Candaules (735 - 718 TCN), ông này có bà vợ rất đẹp và thường hay khoe vợ với các tùy tướng, trong đó có Gyges. Vua nói: "Dường như bạn không tin tôi khi tôi nói với bạn rằng vợ tôi đáng yêu thế nào. "Một người đàn ông luôn tin rằng đôi mắt của mình tốt hơn đôi tai của mình, vậy làm như tôi nói với bạn - tưởng tượng nhìn thấy cô ấy trần truồng."<ref>Herodotus, 1.8.2</ref>. Về sau, bị Gyges nhìm trộm, người vơ vua phát hiện và bắt quả tang. Để che giấu việc làm sai trái của mình, hoàng hậu của vua bí mật xúi Gyges ám sát nhà vua. Gyges giấu sau cánh cửa phòng ngủ với một con dao do Nữ hoàng cung cấp, và giết chết nhà vua trong giấc ngủ. Gyges kết hôn với Nữ hoàng và trở thành Vua, và cha cho triều đại Mermnad.
Triều đại mới này đánh dấu một loạt các bất ổn khi có tới 17 vị vua thay nhau trị vì. Cuối cùng vào năm 795 TCN, Ardys I (Ardysus I) (795–759 TCN) kế ngôi làm vị thứ 19 của triều đại này. Herodotos kể qua hai vị vua kế tiếp là Alyattes I (759–745 TCN) (con của Ardys I) và Meles (745–733 TCN) (con của Alyattes I).
 
Triều đại mới này đánh dấu một loạt các bất ổn khi có tới 17 vị vua thay nhau trị vì. Cuối cùng vào năm 795 TCN, Ardys I (Ardysus I) (795–759 TCN) kế ngôi làm vị thứ 19 của triều đại này. Herodotos kể qua hai vị vua kế tiếp là Alyattes I (759–745 TCN) (con của Ardys I) và Meles (745–733 TCN) (con của Alyattes I). Đến thời vua cuối cùng là Candaules (735 - 718 TCN), ông này có bà vợ rất đẹp và thường hay khoe vợ với các tùy tướng, trong đó có Gyges. Vua nói: "Dường như bạn không tin tôi khi tôi nói với bạn rằng vợ tôi đáng yêu thế nào. "Một người đàn ông luôn tin rằng đôi mắt của mình tốt hơn đôi tai của mình, vậy làm như tôi nói với bạn - tưởng tượng nhìn thấy cô ấy trần truồng."<ref>Herodotus, 1.8.2</ref>. Về sau, bị Gyges nhìm trộm, ngườihoàng vơ vuahậu phát hiện và bắt quả tang. Để che giấu việc làm sai trái của mình, hoàng hậu của vua bí mật xúi Gyges ám sát nhà vua. Gyges giấu ngọn giáo ở sau cánh cửa phòng ngủ với một con dao do Nữ hoàng hậu cung cấp, và giết chết nhà vua trong giấc ngủ. Gyges kết hôn với Nữ hoàng hậu và trở thành Vua, và chamở chođầu triều đại Mermnad.
 
=== Vương triều Mermnad ===
Vương triều được mở đầu bởi Gyges, con trai của Dascylus. Ông ta được vua Candaules tuyển vào làm vệ sĩ của nhà vua. Theo Nicolaus của Damascus, Gyges được nhà vua tin tưởng cao. Theo sự sắp đặt của nhà vua, Gyges đã lấy Tudo, con gái của Arnossus xứ Mysia làm vợ. Khi vợ mình liên tục than phiền và tiết lộ ý định giết Gyges của nhà vua, Gyges đã ra tay trước và ám sát được vua vào năm 718 TCN.
 
Gyges lên ngôi trước sự phản đối quyết liệt của quần thần. Đề ngăn chặn nội chiến sắp diễn ra, ông tìm cách biện minh cho sự lên ngôi của ông bằng cách kiến ​​nghị cho sự chấp thuận của Oracle tại Delphi. Lên ngôi chính thức vào năm 716 TCN, Gyges bắt đầu bành trướng lãnh thổ. Ông ta chiếm được Colophon, bao vây Smyrna<ref> Later tradition associated the campaign on Smyrna with ill-treatment received by a poet of the city named Magnes who had composed verses celebrating Lydian victories and who was a favorite of Gyges.
 
Jump up ^
</ref> và đẩy lùi thành công quân Cimmerian. Dưới thời con trai của ông là Ardys II (678 - 624 TCN), quân đội Lydia tấn công thành phố Miletus ở Hy Lạp của Ionia và thành công trong việc chiếm đóng thành phố Priene<ref> 'Miletos, the ornament of Ionia: history of the city to 400 BCE' by Vanessa B. Gorman (University of Michigan Press) 2001
</ref>. Ardys II thất bại to trong cuộc chiến đấu với người Cimmerian<ref>Kristensen, Anne Katrine Gade (1988). ''Who were the Cimmerians, and where did they come from?: Sargon II, and the Cimmerians, and Rusa I''. Copenhagen Denmark: The Royal Danish Academy of Science and Letters.</ref>.
 
Thế kỷ VII - VI TCN là thời thịnh trị của vương quốc Lydia. Alyattes II lên thay vua cha Sadyattes (624–619 TCN) đã bắt đầu mở rộng vương quốc. Trong thời trị vì của mình, Alyattes II hoàn thành nốt công việc còn dở dang của cha mình là đánh chiếm Miletus, một thành bang của Hy Lạp. Trong lúc đang đánh Miletus, ông cảnh giác trước âm mưu xâm lược Lydia của người Media và người Babylon. Vào ngày 28 tháng 5 năm 585 TCN, trong trận chiến Halys chống lại Cyaxares, vua Media, nhật thực đã xảy ra; Cuộc chiến đã bị đình chỉ và hiệp ước hòa bình giữa hai nước Media - Lydia, quy định sông Halys là ranh giới giữa hai vương quốc<ref>Chisholm, Hugh, ed. (1911). "Alyattes". ''Encyclopædia Britannica''. 1 (11th ed.). Cambridge University Press. p. 776</ref>. Với sự giúp đỡ của đội quân khuyển cùng với người Cimmerian ở Tiêu Á, quân Lydia phá hủy nhiều thành phố lớn ở Ionia, bao gồm Smyrna và Colophon. Trong trận Smyrna, quân Lydia đã lùa người dân của đối phương thất trận vào nông thôn. Ông đã chuẩn hóa trọng lượng của đồng xu (1 stater = 168 hạt lúa mì). Cuối đời, ông truyền ngôi cho con trai là [[Croesus]].
 
[[Kroisos|Croesus]] sinh năm 595 TCN, lên ngôi năm 560 TCN. Tích cóp nhiều của cải lúc còn trẻ, ông trở thành người giàu có, tuy nhiên cũng rất kiêu căng. Ông ta đã khoe khoan độ giàu có với nhiều người, trong đó có cả nhà hiền triết Solon. Herodotos ghi nhận, nhà vua muốn khám phá ra những nhà tiên tri nổi tiếng nào trong thời đại của ông đã đưa ra những bí danh đáng tin cậy. Ông ta đã gửi các đại sứ đến các nhà truyền đạo quan trọng nhất rằng vào ngày thứ 100 kể từ khi rời khỏi Sardis, họ nên hỏi vị vua của người Lydian, Croesus, con của Alyattes đang làm gì vào ngày chính xác này<ref> Herodotus, 1.46-51
</ref>. Quá tin vào thần Delphi, nhà vua đưa những con rùa và thịt cừu đun sôi cùng nhau trong một chiếc vạc bằng đồng, được phủ một cái nắp bằng đồng. Ông hy sinh 3.000 động vật để hiến tế cho tôn giáo. Trong thời ông trị vì, vị thái tử thừa kế là Atys<ref>Người ám sát thái tử là Adrastus, hoàng tử Phrygia. Ông đã vô tình giết chết thái tử khi đang sặn lợn rừng. Adrastus sau đó phải tự sát</ref> bị ám sát trong cuộc đi săn. Bị đế quốc Ba Tư nổi lên, ông tập hợp các đồng minh để chống cự
 
==Các vị thần của Lydia==