Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đề-bà-đạt-đa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Bổ sung
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 60:
"[[Căn bản thuyết Nhất-thiết-hữu bộ Phá tăng sự]]" thì ghi lại: Đề-bà-đạt-đa tạo ba nghiệp Vô-gián, nhận phải sự thiêu đốt trong lửa địa ngục Vô-gián, thống khổ vô cùng. A-nan thấy ông ta nhận khổ, lòng sinh thương xót, bảo ông ta nên chí thành quy y với Phật Thế Tôn. Đề-bà-đạt-đa "trong lòng khẩn thiết, miệng tự kêu rằng: 'Ngày nay thân tôi thật nát xương, ở chốn Bạc-già-bạn, chí tâm quy phục'.".
 
== Đời quá khứ của Đề-bà-đạt-đa == Để hiểu một cách đầy đủ tính thèm khát danh vọng, lòng ganh tỵ, và tật oán ghét của Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta), đối với đức Phật, chúng ta phải tìm lại quá khứ, và đặc biệt là đọc câu chuyện, lần họ gặp nhau đầu tiên, trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka), có tên là “Seri Vànija” (“Thương gia độc lập”, hay “dân bán hàng chuyến”).
== Đời quá khứ của Đề-bà-đạt-đa ==
 
Theo truyện ấy thì một kiếp nọ, tiền thân Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) và tiền thân Phật (còn gọi là Bồ-Tát, Bodhisatta), đã sinh làm hai thương gia “du phương”. Đề-Bà-Đạt-Đa là một “tay buôn” tham lam và gian lận. Y đã du hành nhiều lần, buôn bán một số hàng, mà y không biết đối xử với khách, một cách song phương đều có lợi.
 
Ngày nọ, y vào nhà một nữ nông dân nghèo kia, người đàn bà tuy không có tiền mua hàng, nhưng lại có một cổ vật muốn đổi chác. Đó là một cái lọ cũ đã đổi màu trong nhà bếp. Bà bảo đứa cháu mang cái lọ khá to ra, đưa cho Đề-Bà-Đạt-Đa và nói, “Ông hãy định giá cái lọ lớn nầy, để tôi đổi lấy các món hàng cần dùng của ông”.
 
Khi cầm lấy cái lọ nặng, Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) biết đó không phải là một vật tầm thường. Nó vốn làm bằng vàng. Giá trị của nó còn đắc hơn cả số hàng hóa mà Đề-Bà-Đạt-Đa chất trên xe. Y cũng nhận thấy hai bà cháu lão nông dân chẳng biết đây là vật quí.
 
Lòng tham nổi lên, Y giả bộ nói rằng, đó là một cái lọ cũ chẳng dùng được vào đâu cả. Rồi y trả nó lại cho chủ, in tuồng như mang nó về chẳng nên tích sự gì. Trong lòng tên gian thương còn nghĩ, nếu bà đổi nó với giá rẻ mạc, mình cũng sẽ bỏ đi. Rồi mình trở lại tất có lợi hơn. Biết đâu bà túng thiếu quá, sẽ năn nỉ mình mua rẻ. Và mình sẽ bảo, vì lòng từ bi muốn làm phước giúp bà, tôi mới mua cái lọ cũ “vô dụng” nầy, chứ tôi chẳng biết phải làm gì với nó.
May thay cho bà lão. Sau khi y đi rồi thì thương gia thứ hai (hay Bồ-Tát) đến bán hàng, cũng tại nhà bà nông dân nghèo ấy. Bà lão lại bảo cháu mang cái lọ cũ đổi màu ra, và đề nghị đổi chác như trước.
 
Bồ-Tát (Bodhisatta) nhận ra giá trị của cái lọ bằng vàng, liền báo cho người chủ biết, giá trị của nó cao hơn tất cả hàng hóa trên xe. Nhưng bà lão vì cần dùng phẩm vật, đã bằng lòng trao cái lọ bằng vàng cho Bồ-Tát, và nhận tất cả hàng hóa.
Trước khi tiễn ngưòi bán hàng, bà còn cám ơn Bồ-Tát về lòng ngay thẳng. Bà cũng không quên thuật lại câu chuyện người thương gia thứ nhất đã cố ý lừa bà. Nhưng y đã không còn dịp nữa.
 
Tiền thân Đề-Bà-Đạt-Đa nào biết mọi sự cố, y tưởng cái lọ vẫn còn đó, nên đi một vòng rồi quay lại, hy vọng sẽ thu được cái lọ, và quăng cho bà vài thứ thực phẩm tồi tàn. Khi y nghe bà lão thuật lại, Bồ-Tát đã thu được cái lọ và đi rồi. Sự tức giận và lòng ganh tỵ của y tăng lên đến cực độ. Liền đó, y kết oán với Bồ-Tát, và thề sẽ trả thù về sau.
 
Lòng giận dữ và oán ghét sâu đậm đó thật là nguy hiểm. Nó biến Đề-Bà-Đạ-Đa thành một sinh linh, đầy sân hận và ganh tỵ đối với Bồ-Tát, xuyên qua không biết bao nhiêu kiếp luân hồi
Còn trong những Túc Sinh Truyện (Jàtaka) khác, thì Phật đã mô tả lòng oán ghét và mưu toan hãm hại đối thủ nhiều lần của Đề-Bà-Đạt-Đa, nhưng lần nào y cũng thất bại, khiến cho mức độ ganh tỵ và oán hận càng lúc càng tăng. Vì vậy mà trong mọi hành động, Đề-Bà-Đạt-Đa đều tạo nhân duyên, hễ Bồ-Tát tái sinh nơi nào, thì y cũng tái sinh nơi ấy, để kết thêm oan trái.
Quay lại chuyện Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) thời Phật. Sau khi “thành công” trong việc chia rẽ tăng già, ông đã mất hết thần thông, không còn khả năng làm cho người khác nể sợ. Nghĩa là ông chỉ “lãnh đạo” được nhóm tỳ khưu nhẹ dạ ly khai trong một thời gian ngắn.
Lúc họ biết được mặt thật của ông, thì họ đã hối hận, kéo nhau về ra mắt đức Phật để sám hối tạ tội. Đề-Bà-Đạt-Đa chỉ còn một mình, sống hẩm hiu những ngày tháng cô độc.
 
Khi Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) đến gần cái chết, thì một nỗi hối tiếc không ngừng dày vò tâm tư ông. Lúc đó ông mớinhận chân được pháp vô thường trong kiếp sống. Một nỗi đau đớn đè nặng trong tim ông. Và ngoài con đường qui chánh, ông không còn con đường nào khác. Ông tự hỏi “Phải chăng chỉ còn một nhân duyên chót nầy, vì Phật sẽ không luân hồi nữa, tại sao ta không lấy giáo pháp của Ngài làm phương tiện để cứu giúp mình ? Hay ta đã đi quá xa chánh đạo, quay về không được nữa ?”.
 
Ông run rẩy đứng lên, bước về hướng Kỳ Viên Tịnh Xá, để về xin Phật tha lỗi. Nhưng chân ông bỗng dính chặc vào mặt đất, ông liền ngã quỵ, và lửa địa ngục đã phực ra, phủ lên linh hồn lẫn thể xác của ông. Đề-Bà-Đạt-Đa nghẹt thở, mắt hết thấy đường, hấp hối và tắt thở trong sự dày vò cực độ, trước khi đến được với đức Phật. Lập tức Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) rơi vào địa ngục vô gián (Avichi Niraya).
Sau khi nghe kể lại cái chết thảm kốc của người đệ tử nầy, đức Phật đã nói “Mặc dù Đề-Bà-Đạt-Đa có nhiều hành động xấu, nhưng những phạm hạnh ông thực hiện trong thời gian đầu làm tỳ khưu, dưới sự hướng dẫn của Như Lai, vẫn trổ quả tốt trong tương lai.
Tuy tham vọng thúc đẩy Đề-Bà-Đạt-Đa nôn nóng trở thành một giáo chủ, và quả ấy ông không đạt được. Nhưng pháp hành và thiền định mà ông đã thành công đến mức có thần thông, sẽ giúp ông tỉnh ngộ, và tự tư, tự đắc sau nầy, khi đã trả hết quả ác, xuyên qua vô lượng thời gian, trong địa ngục. Phật biết Đề-Bà-Đạt-Đa trong vô lượng kiếp tương lai, sẽ là một vị Độc Giác, hay Bích-Chi-Giac (Pacceka-buddha), tên là Satthissara.
Ngày nay, chúng ta đọc lại sử tích những đệ tử nổi danh của Phật. Dĩ nhiên chúng ta không thể noi gương xấu của Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta). Nhưng những “nghịch cảnh” đã xảy ra cho đức Phật, được ghi lại trong kinh điển, liên quan đến ông, cùng những tư liệu đáng chú ý, để khi chúng ta nghiên cứu sử tích, chúng ta không thể nào không thấy tên ông, với những gì ông đã làm. Đó cũng là một cái gương để tránh.
 
Là một bậc đã diệt tận tham sân si, phiền não, dứt hẳn sinh tử luân hồi, hay Toàn Giàc, đức Phật đã tiên đoán cái tương lai thành Độc Giác vô cùng xa xôi, của Đề-Bà-Đạt-Đa, để cho chúng ta thấy rằng, không có gì mà không cải thiện được. Vạn vật luôn luôn vô thường. Trở thành giác ngộ giải thoát, hay trở thành sa đọa trầm luân, đều do chính ta. Gương Phật và chánh pháp chỉ hữu hiệu khi chúng ta noi theo để thực hành. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, tinh thần sáng suốt hay chánh kiến lẫn tự lực là 2 động cơ nòng cốt.
 
Tha lực chính là tự lực khi trở thành phá chấp. Vì công phu do chính mình viên tròn, mà mình mắc dính thì không thể Toàn Giác (Sammà Sambuddha) được. Nếu không nhất tâm thực hành viên tròn phạm hạnh, mà chỉ lo cúng kiến, tụng mãi danh hiệu một vị Phật, để cầu cứu độ, đồng thời bảo đó là sức mạnh của “đức tin”, thì đó chỉ là củng cố sức mạnh của “lòng tham”, chứ không phải là giá trị của đức tin, dẫn đến tìm kiếm sức mạnh của tự lực hay tha lực vậy.
 
Đức Phật đã nhiều lần nhắc nhở, “Ta là nơi nương nhờ của ta” (Attàhi attano nàtho), hay ta là đấng cứu tinh của chính ta, và làm gương cho người khác. Ngay cả đức Phật là bậc có vô lượng từ bi đối với Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta), nhưng Ngài vẫn không cứu giúp được người đệ tử tăm tối nầy.
 
Câu chuyện của Đề-Bà-Đạt-Đa có thể cho những ai, dù nhất thời cùng hung cực ác, vẫn còn một hy vọng, rằng khi đã biết quay về nẻo chánh là khi có lối thoát!Huống chi Đề-Bà-Đạt-Đa chưa phải là ngươi cùng hung cực ác, vì đã biết hối hận trước lúc nhắm mắt
 
== Chú thích ==