Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Mộng Tuân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
|lý do=trình bày tệ, thông tin không nguồn, không bách khoa}}
 
==Thân thế==
Nguyễn Mộng Tuân, tự Văn Nhược, hiệu Cúc Pha, sinh năm 1380, không rõ năm mất quê ở xóm Chằm, làng Viên Khê, xã Đông Anh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Nguyễn Mộng Tuân, đỗ Thái Học Sinh, kỳ thi năm Canh Thìn (1400), tháng 8 mùa thu, đời nhà Hồ . Đầu đề bài thi là “Linh Kim Tàng Phú” hỏi về chuyện Hán Cao tổ (Lưu Bang bên Trung Quốc) có cái kho chứa gươm
'''Nguyễn Mộng Tuân''' tự Văn Nhược, hiệu Cúc Pha, sinh năm 1380, không rõ năm mất.
Thời nhà Hồ, ông lui về ở ẩn. Khi khởi nghĩa Lam Sơn, ông tìm đến Lê Lợi và được Lê Lợi tin dùng và trọng dùng. Sau đại thắng quân Minh ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ban thưởng cho tướng sỹ có công, Nguyễn Mộng Tuân được phong tước Á Hầu giữ chức Khu Mật Mật Đại Sử. Đến thời Lê Thái tông (1434-1442), ông giữ chức Trung thư lệnh và Đô úy. Sang đời Lê Nhân tông (1442-1459), ông giữ chức Tả nạp ngôn, Thượng Khinh Xa Đô Úy, Tri quân dân Bắc đạo; Nguyễn Mộng Tuân cùng với Lê Thụ đi đánh Chiêm Thành, thắng lợi trở về được ban tước Vinh Lộc đại phu.
 
Quê quán: xóm Chằm, làng Viên Khê, xã [[Đông Anh, Đông Sơn|Đông Anh]], huyện [[huyện Đông Sơn]], tỉnh [[Thanh Hóa]].
Nguyễn Mộng Tuân, là tác giả của Cúc Pha tập (143 bài), là tác gia để lại số lượng phú lớn nhất (41 bài) trong văn học cổ Việt Nam; về văn bia ông soạn 1 bài trong Thanh Trù – Quan Liệt Chu thị di thư, và Trịnh Khả Bia ký (ở xã Vĩnh Hòa, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nguyễn Mộng Tuân tham gia giám khảo các kỳ thi Tiến sĩ khoa Nhâm Tuấn (1442) với vai trò là Trung Thử sảnh, Trung Thư Thị Lang; và kỳ thi năm Mậu Thìn (1448) - Môn hạ sảnh Tả ty Tả nạp ngôn Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch. Nguyễn Mộng Tuân từng tiếp các đoàn sứ bộ của các nước, đặc biệt ông còn được mời vào dạy vua học ở tòa Kinh Diên, và từng giữ chức Tế Tửu (hiệu trưởng) Quốc Tử Giám, được vua trọng ban cho lễ ưu đãi tuổi già
 
==Sự nghiệp==
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Mộng Tuân, có thể nói Nguyễn Mộng Tuân là bậc khai quốc công thần có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ vương triều Lê Sơ, cũng như việc đóng góp của ông vào sự lên ngôi của nho giáo trong triều đại Lê Sơ. Nguyễn Mộng Tuân vừa là danh nho, vừa là một võ tướng, vừa là nhà chính trị có tầm nhìn xa, trông rộng: “Cây bút bằng năm vạn quân”, và ông ngõ ý khuyên với vua rằng chỗ dựa vững chắc nhất chính là dân, (lấy dân làm gốc); bởi vậy ông khắc họa hình ảnh: Quân chu (vua là thuyền), Dân thủy (dân là nước) để nhắc bậc quân vương. “Chở lật mới hay cốt ở dân; Thuyền to ắt cậy đến hiền thần”. Một trung quân ái quốc, một đại thần trong suốt ba đời vua từ Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông; đây là một trong những trường hợp ít thấy đối với một khai quốc công thần đời Lê Sơ; một triều đại gắn liền với tiếng chê muôn thuở “Thỏ chết, cung treo”. Trong thời buổi mà các công thần giữ được tính mạng trong quan trường không chỉ bằng tài năng đức độ, mà còn phụ thuộc vào mệnh trời. Vẫn biết, Nguyễn Mộng Tuân là một đại thần, giữ trọng trách lớn của đất nước, là người cương trực, khẳng khái vì lợi ích của nhân dân và quốc gia đại sự, thì nguy hiểm càng đe dọa nhiều đến bản thân. Phải chăng Nguyễn Mộng Tuân đã sống hòa hợp với các mối quan hệ xã hội, hòa hợp với quy luật của trời đất, nên đã trường thọ suốt ba đời vua. Nhưng lòng người khó lường, pha lê không thể để lẫn lộn với gạch đá; cuối đời Nguyễn Mộng Tuân không tránh được hậu họa. Do đó Hậu duệ của Nguyễn Mộng Tuân,đã chuyển đến làng Phủ Lý Nam xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa sinh sống kể từ cuối thế kỷ XV và đổi tên lót từ Nguyễn Mộng sang Nguyễn Xuân kể từ đó
Nguyễn Mộng Tuân đỗ Thái Học Sinh, kỳ thi năm Canh Thìn (1400), tháng 8 mùa thu, đời nhà Hồ.
 
Thời [[nhà Hồ]], ông lui về ở ẩn. Khi [[khởi nghĩa Lam Sơn]] nổ ra, ông tìm đến [[Lê Lợi]] và được Lê Lợi tin dùng và trọng dùng. Sau đại thắng quân Minh ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế ban thưởng cho tướng sỹ có công, Nguyễn Mộng Tuân được phong tước Á Hầu giữ chức Khu Mật Mật Đại Sử. Đến thời Lê Thái tôngTông (1434-1442), ông giữ chức Trung thư lệnh và Đô úy. Sang đời Lê Nhân tông (1442-1459), ông giữ chức Tả nạp ngôn, Thượng Khinh Xa Đô Úy, Tri quân dân Bắc đạo; Nguyễn Mộng Tuân cùng với Lê Thụ đi đánh Chiêm Thành, thắng lợi trở về được ban tước Vinh Lộc đại phu.
 
Nguyễn Mộng Tuân, là tác giả của Cúc Pha tập (143 bài), là tác gia để lại số lượng phú lớn nhất (41 bài) trong văn học cổ Việt Nam; về văn bia ông soạn 1 bài trong Thanh Trù – Quan Liệt Chu thị di thư, và Trịnh Khả Bia ký (ở xã Vĩnh Hòa, [[huyện Vĩnh Lộc]], Thanh Hóa). Nguyễn Mộng Tuân tham gia giám khảo các kỳ thi Tiến sĩ khoa Nhâm Tuấn (1442) với vai trò là Trung Thử sảnh, Trung Thư Thị Lang; và kỳ thi năm Mậu Thìn (1448) - Môn hạ sảnh Tả ty Tả nạp ngôn Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch. Nguyễn Mộng Tuân từng tiếp các đoàn sứ bộ của các nước, đặc biệt ông còn được mời vào dạy vua học ở tòa Kinh Diên, và từng giữ chức Tế Tửu (hiệu trưởng) [[Quốc Tử Giám]], được vua trọng ban cho lễ ưu đãi tuổi già
“…Tể thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa, Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo…” ”Trích Đại Việt Sử Ký toàn thư, bản kỷ thực lục Q1, đời hậu Lê (1433 – 1459)"
 
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Mộng Tuân, có thể nói Nguyễn Mộng Tuân là bậc khai quốc công thần có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ vương triều Lê Sơ, cũng như việc đóng góp của ông vào sự lên ngôi của nho giáo trong triều đại Lê Sơ. Nguyễn Mộng Tuân vừa là danh nho, vừa là một võ tướng, vừa là nhà chính trị có tầm nhìn xa, trông rộng: “Cây bút bằng năm vạn quân”, và ông ngõ ý khuyên với vua rằng chỗ dựa vững chắc nhất chính là dân, (lấy dân làm gốc); bởi vậy ông khắc họa hình ảnh: Quân chu (vua là thuyền), Dân thủy (dân là nước) để nhắc bậc quân vương. “Chở lật mới hay cốt ở dân; Thuyền to ắt cậy đến hiền thần”. Một trung quân ái quốc, một đại thần trong suốt ba đời vua từ Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông; đây là một trong những trường hợp ít thấy đối với một khai quốc công thần đời Lê Sơ; một triều đại gắn liền với tiếng chê muôn thuở “Thỏ chết, cung treo”. Trong thời buổi mà các công thần giữ được tính mạng trong quan trường không chỉ bằng tài năng đức độ, mà còn phụ thuộc vào mệnh trời. Vẫn biết, Nguyễn Mộng Tuân là một đại thần, giữ trọng trách lớn của đất nước, là người cương trực, khẳng khái vì lợi ích của nhân dân và quốc gia đại sự, thì nguy hiểm càng đe dọa nhiều đến bản thân. Phải chăng Nguyễn Mộng Tuân đã sống hòa hợp với các mối quan hệ xã hội, hòa hợp với quy luật của trời đất, nên đã trường thọ suốt ba đời vua. Nhưng lòng người khó lường, pha lê không thể để lẫn lộn với gạch đá; cuối đời Nguyễn Mộng Tuân không tránh được hậu họa. Do đó Hậu duệ của Nguyễn Mộng Tuân,đã chuyển đến làng Phủ Lý Nam xã [[Thiệu Trung]], huyện [[Thiệu Hóa]] sinh sống kể từ cuối thế kỷ XV và đổi tên lót từ Nguyễn Mộng sang Nguyễn Xuân kể từ đó.
Một triều lại gắn liền với chiến công hiển hách, lay động đất trời, sao lại để lại vết nhơ như thế? người đời chê cười biết đến lúc nào nguôi? Thế mới biết, ở trên đời, những người tài đức đôi khi lại bị tiểu nhân làm nhục.
 
Than ôi! chốn quan trường, nghìn năm trước; vạn đời sau có khác gì chăng?
“…Tể thần như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa, Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo…” ”Trích Đại Việt Sử Ký toàn thư, bản kỷ thực lục Q1, đời hậu Lê (1433 – 1459)"
 
==Chú thích==
<references/>
Tháng 8 mùa thu, năm Kỷ Sửu (2009)
 
==Liên kết ngoài==
*[http://vannghexuthanh.vnweblogs.com/print/1652/39432 Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Mộng Tuân]
*[http://tocnguyenxuan.org/Guest/Default.asp?crt=Article&mID=232&ID=1381 Nguyễn Mộng Tuân]
 
[[Thể loại:Quan nhà Hậu Lê]]
Nguyễn Xuân Thiên
[[Thể loại:Người Thanh Hóa]]
'Nguồn tocnguyenxuan.org'
{{Thời gian sống|sinh=1380|mất=???}}