Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thụy hiệu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 13:
Một số vua chúa không có thụy hiệu, có thể vì người kế vị không chịu hay chưa có cơ hội đặt tên. Các vua có nhiều võ công thường được đặt thụy là Vũ Đế ([[Hán Vũ Đế]], [[Tấn Vũ Đế]]...), Vũ Vương ([[Chu Vũ Vương]], [[Sở Vũ Vương]]), Vũ Công ([[Tấn Vũ Công]], [[Trịnh Vũ Công]])...; các vua nổi về giáo hóa được tôn là Văn Đế ([[Tùy Văn Đế]], [[Hán Văn Đế]]), Văn Vương ([[Chu Văn Vương]], [[Sở Văn Vương]]), Văn Công ([[Trịnh Văn Công]], [[Tống Văn Công]]...). Vua độc ác thường được gọi là Lệ Vương, Lệ Công ([[Chu Lệ Vương]], Mẫn Lệ công - thụy hiệu của ''vua quỷ'' [[Lê Uy Mục]] khi mới mất, sau này [[Lê Chiêu Tông]] đổi là Uy Mục); vua ngu tối thì đặt thụy là U vương, U công ([[Chu U Vương]], [[Trần U Công]]...)
 
Thời Chu, các vua chúa thường có thụy hiệu ngắn 1-2 chữ, như Thành Vương, Uy Vương, Tuyên Huệ công, Hoàn Huệ Vương... Nhưng từ thời [[nhà Hán]], các thụy hiệu được đặt dài với nhiều chữ và do đó người sau khó nhớ hơn. [[Đường Cao Tổ]] Lý Uyên được tôn thụy hiệu là ''Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu hoàng đế'', [[Trần Thái Tông]] được tôn thụy hiệu là T''hống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế'',...
 
Ở [[Nhật Bản]] từ [[thời kỳ Minh Trị]], vua chỉ đặt một niên hiệu, sau khi qua đời niên hiệu này cũng trở thành thụy hiệu của ông. Chẳng như vua Mutsuhito, đặt niên hiệu là Minh Trị, sau khi qua đời năm [[1912]] ông được tôn [[thụy hiệu]] là ''[[Minh Trị Thiên hoàng]]''.
===Các trường hợp đặc biệt===
Các vua mất nước thường không có thụy hiệu (và cả [[miếu hiệu]]), như [[Mạc Mậu Hợp]], [[Nguyễn Quang Toản]] hay thụy hiệu xấu như Ngọa Triều của vua [[Lê Long Đĩnh]] [[nhà Tiền Lê]]. Trường hợp này thường xảy ra với các vua các triều đại mất nước do chiến tranh tiêu diệt lẫn nhau, triều đại sau diệt triều đại trước không đặt thụy hiệu cho vị vua mà mình giành ngôi.