Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cầm Bá Thước”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18:
 
==Tiếp ứng với các cánh nghĩa quân==
Ngày 21 tháng 1 năm 1887, căn cứ [[Ba Đình]] thất thủ. Nghĩa quân Ba Đình rút về Mã Cao hội quân với nghĩa quân [[Hà Văn Mao]]. Tuy nhiên, đến mùa thu năm 1887, căn cứ Mã Cao cũng bị quân Pháp phá vỡ. Các toán nghĩa quân tan rã về các địa phương. Một cánh quân do Hà Văn Mao chỉ huy rút theo hướng Thung Voi, Thung Khoai, rút về Điền Lư, Niên Kỷ (nay thuộc huyện Bá Thước). Một cánh quân rút về Thường Xuân hội quân với nghĩa quân Trịnh Vạn.
 
Theo đà truy kích, quân Pháp tập trung tiêu diệt cánh quân của Hà Văn Mao trước tiên. Cuối năm [[1887]], nghĩa quân bị tấn công thiệt hại nặng nề. Hà Văn Mao tự sát. Một thủ lĩnh Mường khác là Hà Văn Nho chiêu tập nghĩa quân phối hợp với Tống Duy Tân để tiếp tục hoạt động. Quân Pháp rút về để tập trung tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh của Tống Duy Tân, tạm thời chưa đủ lực lượng để tấn công Trịnh Vạn.
 
Sau trận tập kích đồn Yên Lược vào đêm ngày 2 tháng 12 năm 1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh rút lên Trịnh Vạn. Ở Trịnh Vạn, Tống Duy Tân để lại số lương thực và vũ khí cho Cầm Bá Thước, còn nghĩa quân Hùng Lĩnh được biên chế gọn nhẹ tiến lên Mường Kỷ mong hợp quân với cánh quân Đốc Ngữ chuyển ra Bắc. Tuy nhiên, do quân Pháp tập kích liên miên, nghĩa quân Hùng Lĩnh bị suy yếu không còn đủ sức chiến đấu nữa. Tháng 9 năm 1892, Tống Duy Tân bị một người học trò của mình là Cao Ngọc Lễ phản bội, báo tin cho Pháp bắt. Nghĩa quân Hùng Lĩnh hoàn toàn tan rã.