Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Trân Châu Cảng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Tiếp cận và tấn công: en: text legend |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 23:
'''Trận tấn công Trân Châu Cảng''' (hay ''Chiến dịch Hawaii'' theo cách gọi của [[Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản]])<ref>Fukudome, Shigeru, "Hawaii Operation". United States Naval Institute, ''Proceedings'', 81 (tháng 12 năm 1955), trang 1315-1331</ref> là một đòn [[tấn công quân sự]] bất ngờ được [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản|Hải quân]] [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] thực hiện nhằm vào [[căn cứ hải quân]] của [[Hoa Kỳ]] tại [[Trân Châu Cảng]] thuộc tiểu bang [[Hawaii]] vào sáng [[Chủ Nhật]], ngày [[7 tháng 12]] năm [[1941]], dẫn đến việc Hoa Kỳ sau đó quyết định tham gia vào hoạt động quân sự trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]. Trận đánh này được trù tính sẽ [[chiến tranh ngăn ngừa|ngăn ngừa]] và giữ chân [[Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ]] không can thiệp đến cuộc chiến mà Nhật Bản đang hoạch định nhằm xâm chiếm [[Đông Nam Á]], chống lại [[Anh Quốc]], [[Hà Lan]] và Hoa Kỳ. Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay<ref name="parillo288">{{Harvnb|Parillo|2006|p=288}}</ref> xuất phát từ sáu [[tàu sân bay]] Nhật Bản. Trận tấn công đã đánh chìm bốn [[thiết giáp hạm]] [[Hoa Kỳ]] (hai chiếc trong số đó sau này được vớt lên và đưa trở lại hoạt động), và gây hư hỏng cho bốn chiếc khác. Quân Nhật còn đánh chìm hoặc phá hoại ba [[tàu tuần dương]], ba [[tàu khu trục]] và một [[tàu thả mìn]], phá hủy 188 máy bay, gây tổn thất về nhân mạng là 2.402 người tử trận và 1.282 người khác bị thương. Các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng sửa chữa và các kho chứa nhiên liệu và ngư lôi, cùng các bến tàu dành cho tàu ngầm và tòa nhà sở chỉ huy (cũng là nơi đặt [[Station Hypo|bộ phận tình báo]]) đã không bị đánh trúng. Thiệt hại về phía Nhật Bản nhỏ, chỉ mất 29 máy bay và bốn [[tàu ngầm bỏ túi]], với 65 người thương vong.
Cuộc tấn công là một sự kiện lớn trong Thế chiến thứ hai. Nó đã diễn ra trước khi có bất cứ một lời [[tuyên chiến]] chính thức nào được đưa ra, cả trước khi phần cuối cùng trong một thông điệp gồm 14 phần được chuyển hoàn tất đến [[Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ|Bộ Ngoại giao]] ở [[Washington, D.C.]]. Tòa Đại sứ Nhật Bản ở Washington đã được chỉ thị phải chuyển giao thông điệp này ngay trước thời điểm trù định cho cuộc tấn công ở Hawaii. Cuộc tấn công, và đặc biệt là bản chất “bất ngờ” của nó, là hai nhân tố khiến cho công chúng
Tiếp theo Hoa Kỳ, Anh và các thuộc địa của Anh, chính phủ Hà Lan và một loạt các quốc gia Mỹ Latinh cũng tuyên chiến với Nhật. Về phía [[phe Trục]], ngày [[11 tháng 12]], [[Đức Quốc xã]] và [[Phát xít Ý|Ý]] cũng tuyên chiến với == Bối cảnh của cuộc xung đột ==
Hàng 29 ⟶ 31:
=== Kế hoạch của đòn tấn công ===
Đòn tấn công được trù tính sẽ vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, nhờ đó bảo vệ cho kế hoạch xâm lược [[Bán đảo Mã Lai|Malaya]] và [[Đông Ấn thuộc Hà Lan]] của Nhật Bản, nơi người Nhật đang tìm kiếm các nguồn nguyên liệu thiên nhiên như [[dầu mỏ]] và [[cao su]]. Cả hai phía
Vào năm [[1940]], dựa vào điều khoản trong [[Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu]], phía
Ban tham mưu hải quân Nhật đã nghiên cứu một cách sâu sắc sự kiện Anh Quốc [[Trận Taranto|tấn công hạm đội Ý]] tại cảng [[Taranto]] vào năm [[1940]]. Sự kiện này đã được tận dụng triệt để nhằm lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào căn cứ hải quân
Sau khi Nhật Bản [[Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương thuộc Pháp|xâm chiếm Đông Dương]],
Nhật Bản và Hoa Kỳ đều nhận thức được nguy cơ chiến tranh (và đều xây dựng các kế hoạch chuẩn bị điều này) ngay từ những năm [[Thập niên 1920|1920]], cho dù sự căng thẳng trong mối quan hệ chưa thực sự bắt đầu leo thang đến tận khi Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu năm [[1931]]. Trong thập niên tiếp theo, Nhật Bản tiếp tục bành trướng vào Trung Quốc, dẫn đến cuộc [[Chiến tranh Trung Nhật]] vào năm [[1937]]. Đến năm [[1940]], Nhật Bản tiến hành [[Xâm chiếm Đông Dương thuộc Pháp|xâm chiếm Đông Dương]] nhằm ngăn chặn các con đường tiếp tế đến được Trung Quốc, đồng thời cũng là một bước đi đến việc sở hữu các nguồn tài nguyên ở Đông Nam Á. Hành động này khiến Hoa Kỳ ra lệnh cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải khởi động kế hoạch chiếm hữu việc sản xuất xăng dầu tại Đông Ấn.<ref>Điều này thuần túy là một sự ưa thích của Hải quân Nhật; [[Lục quân Đế quốc Nhật Bản|Lục quân Nhật Bản]] sẽ chọn để tấn công [[Liên Xô]]. {{Harvnb|Peattie|1997}}; Coox, ''Kobun''.</ref> Hơn nữa, việc chuyển Hạm đội Thái Bình Dương từ căn cứ trước đây ở [[San Diego]] đến các căn cứ mới ở Trân Châu Cảng được giới quân sự Nhật Bản xem là
[[Tập tin:Pearl Harbor looking southwest-Oct41.jpg|nhỏ|trái|Trân Châu Cảng vào ngày [[30 tháng 10]] năm [[1941]].]]
Kế hoạch sơ thảo cho một cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng nhằm bảo vệ cuộc tiến quân vào "Khu vực Tài nguyên phía Nam" (tên mà phía Nhật đặt cho khu vực Đông Ấn và Đông Nam Á nói chung) được bắt đầu ngay từ đầu năm [[1941]], dưới sự đỡ đầu của Đô đốc [[Isoroku Yamamoto|Yamamoto]], lúc đó đang là Tư lệnh của [[Hạm đội Liên hợp]] Nhật Bản.<ref name=Gailey1995p68>{{Harvnb|Gailey|1995|p=68}}</ref> Ông giành được sự ủng hộ chính thức của [[Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đế quốc Nhật Bản]] để vạch kế hoạch và huấn luyện cho cuộc tấn công sau nhiều cuộc tranh luận căng thẳng với Bộ chỉ huy Hải quân; ông thậm chí đã đe dọa từ chức.<ref name=Gailey1995p70>{{Harvnb|Gailey|1995|p=70}}</ref> Công việc lên kế hoạch toàn diện được tiến hành vào đầu mùa Xuân năm [[1941]], chủ yếu do Đại tá [[Minoru Genda]] thực hiện. Trong những tháng tiếp theo sau, phi công được huấn luyện, trang bị được cải tiến và thông tin tình báo được thu thập. Cho dù có những sự chuẩn bị như vậy, kế hoạch tấn công chỉ được [[Thiên hoàng Chiêu Hòa]] phê chuẩn chính thức vào ngày [[5 tháng 11]], sau ba trong tổng số bốn cuộc họp Hội nghị Hoàng gia để xem xét vấn đề.<ref>Peter Wetzler, ''Hirohito and War'', 1998, trang 39</ref> Nhật Hoàng chỉ đưa ra lời cho phép cuối cùng vào ngày [[1 tháng 12]], sau khi phần lớn các nhà lãnh đạo Nhật thuyết phục với ông rằng bản "[[ghi chú của Hull]]" có thể "phá hủy thành quả của các sự kiện tại Trung Quốc, đe dọa [[Mãn Châu Quốc]] và hạ thấp khả năng kiểm soát Triều Tiên của Nhật Bản."<ref>Bix, Herbert. ''Hirohito and the Making of Modern Japan'', 2000, trang 417, trích dẫn hồi ức của Sugiyama)</ref> Đến cuối năm [[1941]], các căn cứ và cơ sở quân sự
Hiện đang nổi lên một cuộc tranh luận xuất phát từ các cáo buộc của các [[nhà âm mưu học]], các [[sử gia quân sự]] và các cựu quân nhân cho rằng một số thành viên trong [[nội các của Roosevelt]] đã [[Tranh luận về việc biết trước việc tấn công Trân Châu Cảng|biết trước]] về cuộc tấn công và đã lờ đi nhằm tìm kiếm sự hỗ trợ từ phía công chúng và [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc hội]] trong việc cho phép
| last = Flemming
| first = Thomas
Hàng 63 ⟶ 65:
=== Mục tiêu ===
Cuộc tấn công có nhiều mục đích chính. Trước tiên, người Nhật hi vọng nó sẽ tiêu diệt các đơn vị của hạm đội
Đặt mục tiêu chính vào những chiếc [[thiết giáp hạm]] là một cách đánh vào tinh thần, vì chúng là niềm tự hào của mọi lực lượng hải quân vào thời điểm đó.<ref name=Willmott14/> Vì các ý tưởng chiến lược và văn kiện quân sự của cả hai phía Nhật Bản và Hoa Kỳ đều xuất phát từ công trình của Thuyền trưởng [[Alfred Thayer Mahan|Alfred Mahan]],<ref>Miller, Edward S. ''War Plan Orange: The U.S. Strategy to Defeat Japan, 1897–1945'' (Annapolis, MD: United States Naval Institute Press,1991).</ref> vốn cho rằng những chiếc thiết giáp hạm có vai trò quyết định trong các trận hải chiến.<ref>Mahan, Alfred T. ''The Influence of Seapower on History, 1660–1783'' (Boston: Little, Brown, 1918, reprinted 1949), ''passim''.</ref> Nó cũng là cách đánh vào sức mạnh tác chiến của Hạm đội Thái Bình Dương; và nếu như thành công, điều đó sẽ trì hoãn, nếu không thể ngăn ngừa vĩnh viễn, trận chiến Thái Bình Dương tổng lực ("trận đánh quyết định", theo suy nghĩ của Hải quân Nhật), một cuộc chiến chắc chắn là cuộc đối đầu giữa các thiết giáp hạm. Với những suy nghĩ ấy, Yamamoto dự định phải tìm kiếm và tấn công Hạm đội Thái Bình Dương "bất cứ nơi nào có thể tìm gặp tại Thái Bình Dương."<ref>Trích dẫn phỏng vấn Fukudome, trong: Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'' (New York: Penguin, 1991), p.15.</ref> Ngày [[14 tháng 11]] năm [[1941]], cuộc diễn tập trên sa đồ đã đưa ra giả định lực lượng phòng thủ khi được báo động sẽ có thể đánh chìm hai [[tàu sân bay]] của Nhật và làm hư hại thêm hai chiếc nữa, ngay cả khi có thời tiết thuận lợi;<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'', pp.228 & 230.</ref> đó là tất cả sức mạnh mà Bộ Tổng tham mưu Hải quân Nhật dự định tung ra cho chiến dịch này.<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept''.</ref> Dù sao, Yamamoto vẫn ra lệnh tiếp tục tiến hành. Phía Nhật Bản đã quá tin tưởng vào khả năng đạt được thắng lợi nhanh chóng trong Thế Chiến Thứ Hai, và do đó đã bỏ qua các mục tiêu khác trong cảng, đặc biệt là các xưởng tàu hải quân, kho chứa dầu và căn cứ [[tàu ngầm]], vì tin rằng chiến tranh sẽ kết thúc trước khi các cơ sở đó có thể phát huy tác dụng.<ref>Willmott, ''Barrier and the Javelin''</ref>
Hàng 197 ⟶ 199:
Ngày [[26 tháng 11]] năm [[1941]], một lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản (''Kido Butai'', hay là Lực lượng Tấn công) gồm sáu tàu sân bay hạm đội cùng một số tàu hộ tống và tàu chở dầu tiếp nhiên liệu, dưới quyền chỉ huy của [[Phó Đô đốc]] [[Chuichi Nagumo]] đã lên đường rời miền Bắc Nhật Bản đi đến một địa điểm ở phía Tây Bắc Hawaii, dự định sẽ tung số máy bay trên đó, 405 chiếc, để tấn công vào Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công dự định được chia làm hai đợt với 360 chiếc dành cho hai đợt tấn công, và 48 máy bay làm nhiệm vụ phòng thủ [[tuần tra chiến đấu trên không]] (CAP), kể cả chín chiếc của đợt thứ nhất quay về.
Đợt thứ nhất sẽ là đòn tấn công chủ lực, trong khi đợt thứ hai sẽ hoàn tất những công việc còn sót lại. Đợt thứ nhất mang theo phần lớn vũ khí, chủ yếu là [[ngư lôi]], để tấn công các [[tàu chủ lực]]. Các phi công được lệnh phải chọn những mục tiêu có giá trị cao nhất có mặt tại Trân Châu Cảng để tấn công. [[Máy bay ném bom bổ nhào]] dùng để tấn công các mục tiêu trên mặt đất. Trong khi đó, [[Máy bay tiêm kích]] được yêu cầu phải bắn phá các sân bay và tiêu diệt số máy bay đậu trên mặt đất càng nhiều càng tốt nhằm đảm bảo chúng không thể cất cánh để phản công lại các máy bay ném bom, đặc biệt là trong đợt đầu tiên. Khi những máy bay tiêm kích bị cạn nhiên liệu, chúng sẽ được tiếp thêm nhiên liệu từ các tàu sân bay rồi quay trở lại chiến đấu. Những máy bay tiêm kích sẽ làm nhiệm vụ tuần tra chiến đấu trên không ở nơi cần thiết, đặc biệt là bên trên các sân bay
Để bảo đảm bí mật, đoàn tàu được lệnh đánh chìm mọi tầu bè của các nước trung lập mà nó gặp. Nếu gặp tàu Mỹ trước ngày [[6 tháng 12]] thì hủy bỏ cuộc hành quân quay trở về; trong ngày 6 thì tùy theo tình hình mà có quyết định thích hợp; còn trong ngày 7 thì tấn công tiêu diệt trong bất cứ tình huống nào.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-43">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=43}}</ref> May mắn thay, đúng như kế hoạch đã dự tính, trong suốt cuộc hành hình hơn 10 ngày, "Kido Butai" không gặp một tàu bè nào khác trên đường đi. Trong khi đó, mỗi ngày nó đều nhận được những tin tức tình báo về tình hình Trân Châu Cảng và những chỉ thị cần thiết của Tư lệnh chiến dịch do đô đốc [[Isoroku Yamamoto]] phát đi từ [[hạm đội Liên hợp]] đang thả neo trong [[vịnh Hashirajima]] thuộc biển Nội Hải (Nhật Bản). Những tin tình báo ấy do tòa Tổng lãnh sự Nhật ở [[Honolulu]] điện về cho đô dốc Yamamoto theo những giờ quy định.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-43"/>
Hàng 206 ⟶ 208:
=== Tàu ngầm ===
Các tàu ngầm hạm đội của Nhật Bản [[I-16 (tàu ngầm Nhật)|''I-16'']], [[I -18 (tàu ngầm Nhật)|''I-18'']], [[I-20 (tàu ngầm Nhật)|''I-20'']], [[I-22 (tàu ngầm Nhật)|''I-22'']] và [[I-24 (tàu ngầm Nhật)|''I-24'']], mỗi chiếc mang theo một [[tàu ngầm con]] [[Lớp tàu ngầm Ko-hyoteki|Kiểu A]] để chở đến vùng biển ngoài khơi Oahu.<ref name="proceedings">Stewart, A.J., Lieutenant Commander, USN. "Those Mysterious Midgets", ''United States Naval Institute Proceedings'', December 1974, p.56</ref> Năm chiếc tàu ngầm I-boat này rời [[Căn cứ hải quân Kure]] vào ngày [[25 tháng 11]] năm [[1941]],<ref name="p56">Stewart, p.56</ref> đi đến một vị trí cách lối vào Trân Châu Cảng 19 km (10 hải lý)<ref>{{Harvnb|Goldstein|Dillon|2000|p=[http://books.google.com/books?id=q2pFnALHfykC&pg=PA146&dq=midgets%22pearl+harbor%22&lr=&ei=uA_FSML0M5S0sgP176iKCw&sig=ACfU3U3C4k2fUnGZqZNyVArf_FhRk1wHrQ#PPA274,M1 274]}}</ref> rồi tung các tàu ngầm con ra lúc khoảng 01 giờ 00 [[Giờ tiêu chuẩn Hawaii-Aleut|giờ Hawaii]] sáng sớm ngày [[7 tháng 12]].<ref name="p57">Stewart, "Those Mysterious Midgets", p.57</ref> Lúc 03 giờ 42 phút,<ref>{{Harvnb|Smith|1999|p=36}}</ref> chiếc [[tàu quét mìn]] [[USS Condor (AMc-14)|USS ''Condor'']] phát hiện kính tiềm vọng của một chiếc tàu ngầm bỏ túi ở phía Đông Nam của phao dẫn vào cảng và đã báo động cho chiếc tàu khu trục [[USS Ward (DD-139)|USS ''Ward'']].<ref name="p58">Stewart, "Those Mysterious Midgets", p.58</ref> Con tàu ngầm bỏ túi này có thể đã lọt vào Trân Châu Cảng, nhưng ''Ward'' đã đánh chìm được một chiếc khác vào lúc 06 giờ 37 phút<ref name="p58"/><ref>Nó được phát hiện bởi một thiết bị lặn nghiên cứu của [[Đại học Hawaii]] vào ngày [[28 tháng 8]] năm [[2002]] ở độ sâu 400 m và khoảng cách 8 km (5 dặm) bên ngoài cảng.{{cite web |url=http://www.soest.hawaii.edu/HURL/midget.html|title= Japanese Midget Submarine|accessdate=2008-09-07 }}</ref> trong phát súng đầu tiên của
Chiếc tàu ngầm con thứ ba bị mắc cạn hai lần, một lần bên ngoài lối vào cảng và một lần nữa ở phía Đông của Oahu, nơi nó bị bắt giữ vào ngày [[8 tháng 12]].<ref name="p60">Stewart, pp.59-61</ref> Thiếu úy [[Kazuo Sakamaki]] rời khỏi nó bơi lên bờ và trở thành [[tù binh chiến tranh]] người Nhật Bản đầu tiên trong Thế Chiến Thứ Hai.<ref>Sự sống sót bất ngờ của Sakamaki bị nhiều người Nhật khinh thường, khi họ coi cái chết của các đồng đội của anh như là "chín vị thần trẻ tuổi".</ref> Chiếc thứ tư bị hư hại bởi cuộc tấn công bằng mìn sâu khiến thủy thủ đoàn phải bỏ tàu khi chưa bắn được quả ngư lôi nào.<ref name="p612">Stewart, "Those Mysterious Midgets", p.61-2</ref> [[Viện Hải quân Hoa Kỳ]] vào năm [[1999]], sau khi đã tiến hành một cuộc phân tích các bức ảnh chụp cuộc tấn công, cho biết một tàu ngầm bỏ túi có thể đã bắn trúng một ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm [[USS West Virginia (BB-48)|USS ''West Virginia'']]. Lực lượng Nhật Bản nhận được một liên lạc vô tuyến từ một tàu ngầm bỏ túi lúc 00 giờ 41 phút ngày [[8 tháng 12]] báo cáo đã gây hư hại cho một tàu chiến lớn bên trong Trân Châu Cảng.<ref name="ussbs">Ofstie, R.A., Rear Admiral, USN. ''The Campaigns of the Pacific War'' (United States Government Printing Office, 1946), p.19</ref> Số phận của chiếc cuối cùng này cho đến nay vẫn chưa được xác định.<ref>{{Harvnb|Rodgaard|1999}}</ref>
Hàng 212 ⟶ 214:
=== Nhật Bản tuyên chiến ===
{{seealso|Nhật Bản tuyên chiến với Hoa Kỳ và Anh Quốc}}
Dù cuộc tấn công trên thực tế đã xảy ra trước khi có một lời tuyên chiến chính thức của Nhật Bản, Đô đốc Yamamoto ban đầu đã quy định rằng cuộc tấn công chỉ được thực hiện 30 phút sau khi Nhật Bản thông báo cho Hoa Kỳ rằng họ muốn chấm dứt các cuộc đàm phán về hòa bình.<ref>Calvocoressi ''et al.'', ''The Penguin History of the Second World War'', p.952</ref> Bằng cách này, người Nhật cố gắng đồng thời duy trì các quy ước về chiến tranh trong khi vẫn đạt được yếu tố bất ngờ. Cho dù có những dự định như thế, cuộc tấn công đã được khởi sự trước khi bản thông điệp dài 5.000 từ này được chuyển giao. Tokyo truyền bức thông điệp đến Tòa đại sứ Nhật Bản (chia thành hai phần), mà cuối cùng thời gian truyền quá lâu để có thể kịp trao cho
=== Đợt tấn công thứ nhất ===
[[Tập tin:Pearlmap1.png|thumb|right|250px|Quân Nhật tấn công làm hai đợt. Đợt thứ nhất bị radar Lục quân
[[Tập tin:Pearlmap2.png|thumb|right|250px|{{legend|#6C6FD9|<21 ft}}
Hàng 250 ⟶ 252:
Khi đợt máy bay tấn công thứ nhất tiến đến gần O{{okina}}ahu, một trạm [[radar]] [[SCR-270 (radar)|SCR-270]] của Lục quân Hoa Kỳ đặt tại [[Trạm radar Opana|Opana Point]] gần mũi cực Bắc của hòn đảo (một vị trí chưa đưa vào hoạt động, đang trong giai đoạn huấn luyện được vài tháng) phát hiện ra chúng và phát đi lời cảnh báo. Dù những người vận hành radar báo cáo rằng sóng dội của một mục tiêu lớn chưa từng thấy; một viên sĩ quan chưa được huấn luyện tại một Trung tâm Thông tin vừa được đưa vào vận hành một phần, Trung úy [[Kermit A. Tyler]], đoán chừng rằng đó là do sự có mặt của sáu chiếc [[máy bay ném bom]] [[B-17 Flying Fortress|B-17]] đang được dự định sẽ bay đến. Hướng mà những chiếc máy bay bay đến khá gần (hai hướng bay vào chỉ lệch nhau vài độ),<ref>{{Harvnb|Prange|1999|p=98}}</ref> trong khi những người vận hành chưa từng thấy một đội hình lớn như vậy trên radar;<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'', trang 500.</ref> họ đã thờ ơ không báo cho Tyler về kích cỡ,<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'', trang 501.</ref> trong khi Tyler, vì những lý do an ninh, không thể báo cho họ biết những chiếc B-17 đang sắp đến<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'', trang 501.</ref> (dù điều này được biết một cách rộng rãi).<ref>Prange ''et al''., ''At Dawn We Slept'', trang 501.</ref>
Nhiều máy bay
Từ độ cao 3500 m, đoàn máy bay Nhật bay giữa một biển mây dày dặc tưởng chừng như vô tận khiến các phi công không tránh khỏi lo lắng. Sau gần một giờ bay, Fuchida ra lệnh cho hiệu thính viên dò bắt sóng của dài phát thanh Honolulu để ông theo đó mà xác định hướng bay của phi đoàn. Cũng nhờ thông tin bắt được qua sóng, Fuchida biết được tình hình thời tiết vùng trời Hawaii nhiều mây riêng tại Oahy mây thưa thớt; khu vực Trân Châu Cảng hoàn toàn trong sáng đúng với mong muốn của Fuchida.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-54">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=54}}</ref> Lúc 7 giờ 40 phút, Fuchida mừng rỡ nhận ra bầu trời quả nhiên không còn mây mù. Đúng theo kế hoạch, Fuchida cho toàn phi đoàn lượn theo bờ biển phía Tây Bắc đảo để tiếp cận mục tiêu. Qua ống nhòm, toàn cảnh Trân Châu cảng đã hiện ra dưới mắt Fuchida với đầy đủ 8 thiết giáp hạm xếp hàng thẳng tắp. Chiếc ''Oklahoma'' đứng cạnh ''Maryland'', sau đó là chiếc ''West Virginia'' bên chiếc ''Tennesse'', tiếp đến chiếc ''Arizona'' đứng cạnh chiếc tàu công xưởng mang tên ''Vestal'', chiếc ''Nevada'' đứng cuối hàng, còn chiếc ''California'' dẫn đầu đứng chếch hàng một chút. Cách một quãng về phía trước là kì hạm của hạm đội, chiếc ''Pensylvania'' có hai khu trục hạm hộ tống. Ngoài ra còn nhiều tuần dương hạm và khu trục hạm khác nhưng không có tàu sân bay nào. Cả một hạm đội lớn chưa từng thấy đã gây cho các phi công Nhật một ấn tượng rất mạnh.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-54"/>
Phần không kích của cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng bắt đầu lúc 7 giờ 48 phút sáng giờ Hawaii (3 giờ 18 phút sáng ngày [[8 tháng 12]] [[giờ tiêu chuẩn Nhật Bản]], như ghi nhận trên các con tàu thuộc ''Bộ đội cơ động''), bằng việc tấn công vào Kaneohe.<ref>{{Harvnb|Prange|1999|p=174}}</ref> Tổng cộng có 353 máy bay Nhật Bản<ref name="parillo288"/> gồm hai đợt bay đến được đến O{{okina}}ahu. Để phát lệnh tấn công, Fuchida đã phát đi mật mã "To ... To ... To ..."<ref name="chientranhthaibinhduong 1-55">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=55}}</ref> với một phát súng bắn pháo hiệu màu đen, đây là hiệu lệnh tấn công trong điều kiện địch quân đã bị bất ngờ. Theo đúng dự kiến, 40 máy bay phóng ngư lôi của trung tá Shigeharu Murata hạ thấp xuống lượn về Trân Châu cảng. 49 máy bay do Fuchida chỉ huy bắt đầu triển khai theo hướng đó để sẵn sàng nhập cuộc. Đoàn máy bay ném bom bổ nhào tách làm hai nhóm : 25 chiếc của trung tá Akira Sakamoto đến [[Căn cứ không quân Wheeler Field|sân bay Wheeler]], căn cứ máy bay tiêm kích chủ yếu của [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ|Không lực Lục quân]] Hoa Kỳ còn 26 chiếc do trung tá Kakuichi Takahasi chỉ huy thì đến Trân Châu cảng và [[Căn cứ không quân Hickam Field|sân bay Hickam]] gần đó. Nhưng nhóm chiến đấu cơ 43 chiếc do trung tá Shigeru Itaya chỉ huy lại không triển khai được đội hình do không nhìn thấy pháo hiệu. Fuchida buộc phải bắn thêm phát pháo hiệu nữa. Các phi công lái máy bay ném bom bổ nhào trong thấy cho rằng pháo hiệu thứ hai này có nghĩa là tính bất ngờ đã mất nên họ thực hiện theo phương án hai dự phòng là bổ nhào ném bom xuống các sân bay làm cho kế hoạch bị xáo trộn vì các máy bay phóng ngư lôi và ném bom bổ nhào đã hành động cùng một lúc.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-55"/> Đúng 7 giờ 53 phút, ngay trước khi trái bom đầu tiên rơi xuống Trân Châu cảng, Fuchida đánh đi mật mã thứ hai "Tora ... Tora ... Tora ... ". Mật mã này có nghĩa là cuộc tấn công đã được đảm bảo hoàn toàn bất ngờ.<ref>{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=56}}</ref> 171 máy bay trong đợt thứ hai tấn công các sân bay [[Bellows Field]] của Không lực
Thủy thủ trên những con tàu chiến
Sự dũng cảm được thể hiện ở nhiều nơi khác. Tổng cộng đã có 14 sĩ quan và thủy thủ được trao tặng [[Huân chương Danh dự]]. Sau này, một [[Huân chương và phần thưởng quân sự Hoa Kỳ|phần thưởng quân sự]] đặc biệt, [[Huy chương Tưởng niệm Trân Châu Cảng]], đã được đặt ra và tưởng thưởng cho mọi cựu quân nhân từng tham gia trong cuộc tấn công này.
Hàng 278 ⟶ 280:
Đến lúc 8 giờ, tin về cuộc tấn công Trân Châu cảng mới được báo về Washington và các hạm tàu trên biển. Hỏa lực phòng không từ các chiến hạm và trên bờ bắn lên mỗi lúc một mạnh. Trên nhiều chiến hạm, người ta buộc phải phá cửa các hầm chứa vũ khí đạn dược vì không có thời gian để tìm chìa khóa.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-60">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=60}}</ref> Những đám khói đen, trắng của đạn phòng không nổ tung trên nền trời xanh mỗi lúc một thêm dày đặc, gây khó khăn cho các phi công Nhật. Hỏa lực phòng không tuy rất mạnh nhưng lại thiếu tổ chức, nên kết quả bị hạn chế. Trong lúc hoảng loạn, người ta đã lắp cả đạn huấn luyện vào pháo phòng không để vạch lên trời những đường đạn vô ích.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-60"/> Tám phút sau khi bị quả ngư lôi đầu tiên đánh trúng thiết giáp hạm ''Oklahoma'' đã bị lật nhào. Nước tràn qua những chiếc cửa sập không thể đóng lại được nữa. Hơn 400 sĩ quan và thủy thủ mắc kẹt bên trong chết chìm cùng với tàu.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-61">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=61}}</ref> Các cột buồm nằm dưới nước, trên mặt biển chỉ còn nhô lên mạn bên phải và một phần của sống tàu. Tiếp theo đó, thêm một loạt bom và ngư lôi đánh trúng chiếc ''California'' khiến nó bốc cháy dữ dội và chìm tại chỗ chỉ còn nhô mấy cột buồm lên khỏi mặt nước.
Chiếc ''Arizona'' bị ngư lôi đánh hụt, nhưng các máy bay ném bom đã rót trúng nó 5 trái bom cùng một lúc. Một trong 5 trái đó chui vào ống khói xuống bên dưới nổ ngay ở hầm chứa đạn. Chiếc tàu phát nổ long trời lở đất với một cột khói và lửa cao 300m rồi gãy làm đôi trong 9 phút. Cả hai phần tàu chúi xuống biển rồi từ từ chìm dần làm 1.102 người chết theo tàu.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-62">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=61}}</ref> Trong số các tổn thất về nhân mạng về phía
Từ trên không nhìn xuống, nhiều phi công Nhật lầm tưởng chiếc ''Utah'' là một tàu sân bay, vì nó đậu riêng một chỗ ở bờ bên kia đảo Ford và có mặt boong trống trải.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-62"/> Do đó khoảng nửa tá máy bay Nhật đã lao vào tấn công liên tục chiếc tàu bia không có vũ khí tự vệ này. Lúc 8 giờ 12 phút, chiếc Utah bị lật úp. Giống như chiếc ''Maryland'' đã bị thương sau khi chiếc ''Oklahoma'' đậu bên ngoài nó bị đánh chìm, chiếc ''Tennessee'' bắt đầu bị trúng bom và ngư lôi sau khi chiếc ''West Virginia'' không còn đứng bên để che cho nó nữa. Còn Nevada là chiếc tàu duy nhất dứng cuối hàng các thiết giáp hạm, phơi mình chịu hỏa lực máy bay Nhật. Một quả ngư lôi đánh trúng mũi tàu làm nó hơi chúi xuống và một quả bom rơi trúng boong phía mạn tàu. Mặc dù bị thương, nhưng các bộ phận điều khiển và vô tuyến điện trên tàu vẫn còn tốt. Một sĩ quan đã nhận lấy quyền chỉ huy trong khi vắng hạm trưởng để đưa tàu chạy thoát ra biển. Thông thường, muốn cho thiết giáp hạm di chuyển, cần phải có hai giờ rưỡi để khởi động các nồi hơi và sử dụng 4 tàu kéo. Lần này may mắn là một nồi hơi của tàu đã được khởi động từ sáng sớm để thử máy, nhờ đó tàu có thể rời cảng sau 45 phút kể từ lúc máy bay Nhật bắt đầu tấn công.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-63">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=63}}</ref> Nhờ sự chỉ dẫn luồng lạch của viên thuyền trưởng một tàu cuốc đậu tại lối ra vào cảng, chiếc Nevada vừa chạy vừa chiến đấu và khéo léo xoay chuyển trong bến cảng thật chội đầy khói lửa để tránh bom và ngư lôi. Hai tàu kéo được phái đến giúp thiết giáp hạm này đi vào luồng lạch.
Hàng 296 ⟶ 298:
Nếu như hải quân chỉ lo đối phó với tàu ngầm thì lục quân và không quân của lục quân trên đảo chỉ đề phòng bọn phá hoại, không hề chuẩn bị đối phó với một cuộc tấn công bằng không quân. Theo lệnh tướng Short, máy bay trên các sân bay đều được xếp thành từng tốp cánh sát cánh và thẳng hàng với nhau trên những bãi đậu hoàn toàn trống trải. Bố trí như vậy là để chống phá hoại máy bay, nhưng lại tạo ra điều kiện lý tưởng để không quân dịch tiêu diệt chúng.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-67">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=67}}</ref> Các thủy phi cơ tại căn cứ Kaneohe của hải quân cũng xếp hàng thẳng tắp.
7 giờ 50 phút, loạt bom đầu tiên đã rơi xuống [[Căn cứ không quân Wheeler Field|sân bay Wheeler]], căn cứ chính của các chiến đấu cơ. Các sĩ quan không quân
7 giờ 55 phút, máy bay Nhật thuộc phi đoàn của trung tá Kakuichi Takashi bắt đầu ném bom tấn công [[Căn cứ không quân Hickam Field|sân bay Hickam]]. Lục quân và không quân trên đảo được báo động gần như cùng lúc với hải quân. Từ các sân bay, người ta dùng bất cứ loại vũ khí nào kiếm được để bắn lên trời: từ [[súng máy]], [[súng trường]] cho đến cả [[súng lục]].<ref>{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=68}}</ref> Nhưng hỏa lực chủ yếu vẫn dựa vào hơn 80 khẩu pháo phòng không cỡ 3 inches, 20 pháo phòng không 37 mm và hơn 100 súng máy cỡ lớn nhưng vì thiếu tổ chức phối hợp nên không gây thiệt hại đáng kể cho máy bay Nhật.
Hàng 308 ⟶ 310:
Một lúc sau, sau khi hoàn tất việc đua một đội hạm tàu và các chiến đấu cơ đến [[đảo Wake]], tàu sân bay Mĩ [[USS Enterprise (CV-6)|''Enterprise'']] do đô đốc [[William Halsey]] điều khiển trở về căn cứ. Sáng 7 tháng 12, còn cách Oahu 200 dặm về phía Tây, khi chưa được biết về cuộc tấn công Trân Châu Cảng, đô đốc Halsey đã phái một đoàn máy bay gồm 19 chiếc bay về trước để thăm dò tình hình và báo cáo với Bộ tư lệnh hạm dội về nhiệm vụ đã hoàn thành. Gần 8 giơ 30 phút, tốp đầu tiên trong số đó gồm 6 máy bay phóng ngư lôi đã tiếp cận Trân Châu Cảng và chứng kiến một cảnh tượng mà các phi công của đội bay cho là "cuộc diễn tập ngày chủ nhật".<ref>{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=71}}</ref> Lúc sắp sửa hạ cánh xuống sân bay trên đảo Ford, máy bay của họ bị các chiến đấu cơ Nhật bám đuôi và bắn xối xả đồng thời hỏa lực phòng không Mĩ cũng tập trung bắn vào họ. Khi các phi công Mĩ hiểu rõ sự tình thì đã muộn: 5 máy bay của họ bị bắn rơi, thỉ còn 1 chiếc đáp xuống sân bay với thương tích đầy mình.
[[Tập tin:PLanes_burning-Ford_Island-Pearl_Harbor.jpg|thumb|left|Kho chứa máy bay tại [[đảo Ford]] đang cháy.]]
Thành phố Honolulu chỉ bị một trái bom Nhật lạc hướng rơi trúng. Còn 40 vụ nổ khác trong thành phố là do lực lượng phòng không Mĩ gây ra, làm 68 thường dân chết và bị thương.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-72">{{harvnb|Lê Vinh Quốc|Huỳnh Văn Tòng|1991|p=72}}</ref> Đúng 9 giờ 45 phút, Mitsuo Fuchida ra lệnh cho tất cả các máy bay Nhật quay tụ về mũi đất Kaena để quay về hạm đội, kết thúc cuộc tấn công. Tiếng đạn bom im bặt, nhưng trên bầu trời Oahu vẫn còn một máy bay Nhật bay lượn thêm nửa giờ nữa. Đó là máy bay của tư lệnh hành quân Fuchida đang xác định lại lần cuối cùng kết quả của trận đánh. Những đám cháy vẫn còn bốc cao trên cảng làm ông khó quan sát, nhưng Fuchida cũng chụp được nhiều bức ảnh tốt.<ref name="chientranhthaibinhduong 1-72"/> Việc đánh giá mức độ hủy diệt tại các sân bay có khó khăn hơn nhưng thực tế trên trời không hề có một máy bay
=== Cuộc tập kích kết thúc ===
Hàng 330 ⟶ 332:
=== Khả năng thực hiện đợt tấn công thứ ba ===
Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả [[Mitsuo Fuchida]] và [[Minoru Genda]], kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô đốc Nagumo tiếp tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt nhiên liệu và ngư lôi<ref>Trong trường hợp đó, những tổn thất này mang lai nhiều bất lợi cho
* Hỏa lực phòng không Hoa Kỳ đã cải thiện đáng kể trong đợt tấn công thứ hai, và hai phần ba các tổn thất của phía Nhật Bản xảy ra trong đợt này.<ref name=Hoyt190>{{Harvnb|Hoyt|2000|p=190}}</ref> Nagumo cảm thấy nếu ông tung ra đợt tấn công thứ ba, ông sẽ phải đặt ba phần tư sức mạnh tấn công của Hạm đội Liên hợp vào nguy hiểm để càn quét các mục tiêu còn lại (bao gồm các cơ sở nói trên) trong khi phải chịu nhiều tổn thất máy bay hơn nữa.<ref name=Hoyt190/>
* Vị trí của các tàu sân bay
* Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây là rủi ro lớn.
* Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường quay trở về.<ref>{{Harvnb|Prange|1999}}</ref>
Hàng 351 ⟶ 353:
[[Tập tin:Pennsylvania-cassin-downes.jpg|thumb|right|[[USS Pennsylvania (BB-38)|USS ''Pennsylvania'']], phía sau xác tàu đắm của những tàu khu trục [[USS Downes (DD-375)|USS ''Downes'']] và [[USS Cassin (DD-372)|USS ''Cassin''.]]]]
{{main|Hậu quả của cuộc tấn công Trân Châu Cảng}}
Sau trận tấn công, 16 Huân chương Danh dự Quốc hội, 51 Huân chương Chữ thập Hải quân, 53 Huân chương Chữ thập Bạc, bốn Huân chương Hải quân và Thủy quân Lục chiến, một Chữ thập Bay Xuất sắc, bốn Chữ thập Phục vụ Xuất sắc, một Huân chương Phục vụ Xuất sắc và ba Ngôi sao Đồng được tặng thưởng cho các quân nhân
12 giờ 30 phút ngày [[8 tháng 12]], tổng thống Roosevelt đã đọc Tuyên cáo chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài diễn văn như sau:
Hàng 359 ⟶ 361:
Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, [[Úc]] cũng tuyên chiến với Nhật Bản<ref>{{cite web|periodical= Inter-Allied Review |date=15 tháng 12, 1941|url=http://www.ibiblio.org/pha/timeline/411209awp.html|title=Australia Declares War on Japan |pulisher=Inter-Allied Review via publisher=[Pearl Harbour History Associates Inc. http://www.ibiblio.org/pha/] hosted at ibiblio|year=1997 |accessdate=2009-10-03}}</ref> và một ngày sau đến lượt [[Hà Lan]].<ref>{{cite web|periodical=(purportedly) Inter-Allied Review |date=15 tháng 12, 1941 |url=http://www.ibiblio.org/pha/policy/1941/411208c.html|title= The Kingdom of the Netherlands Declares War with Japan |pulisher=Inter-Allied Review via publisher=[Pearl Harbour History Associates Inc. http://www.ibiblio.org/pha/] hosted at ibiblio|year=1997 |accessdate=2009-10-03}}</ref> Tiếp đó, nước [[Pháp Tự do]], [[New Zealand]], [[Canada]],… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật.
Tin chiến tranh giữa Nhật và Hoa Kỳ bùng nổ bay đến [[Berlin]] một cách đột ngột trong lúc [[Đức Quốc xã]] đang tập trung mọi sự chú ý vào vào [[Chiến tranh Xô-Đức|mặt trận phía Đông]], nơi [[Hồng quân Liên Xô]] đã phản công mãnh liệt đẩy lùi quân Đức trước [[Moscow]]. Liền đó, cũng trong ngày 8 tháng 12, Quốc trưởng [[Adolf Hitler]] đã nhận được thông điệp của chính phủ Nhật, yêu cầu Đức và [[Phát xít Ý|Ý]] tuyên chiến với Hoa Kỳ theo như cam kết trong Hiệp ước Tam cường. Đêm ngày 9 tháng 12, cả Hitler lẫn Mussolini đã điện trả lời chính phủ Nhật rằng cam đoan cả ba nước sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, không giảng hòa riêng rẽ nhưng vẫn né tránh việc tuyên chiến với
:“Sự kiện Chính phủ Nhật Bản, vốn đã thương lượng trong nhiều năm cùng con người này [[Franklin D. Roosevelt]], cuối cùng đã trở nên mệt mỏi vì bị ông ta chơi xấu một cách vô ơn, đã khiến cho tất cả chúng ta, dân tộc Đức, cùng tất cả các dân tộc có lương tri khác trên thế giới, cảm thấy vô cùng thất vọng... Đức và Ý, sau khi xem xét tất cả các điều này và vì sự trung thành với [[Hiệp ước ba bên]], cuối cùng đã buộc phải tiến hành cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ và Anh Quốc, hiệp cùng và sát cánh với Nhật Bản để bảo vệ và từ đó duy trì sự tự do và độc lập của các quốc gia và vương quốc của họ... Là kết quả của sư bành trướng chính sách của Tổng thống Roosevelt, vốn nhắm vào việc chinh phục thế giới và độc tài vô giới hạn, Hoa Kỳ cùng với Anh Quốc đã không ngần ngại sử dụng mọi phương cách để tranh chấp các quyền lợi của các quốc gia Đức, Ý và Nhật Bản thậm chí đến quyền sinh tồn... Không chỉ vì chúng ta là đồng minh của Nhật Bản, mà còn vì Đức và Ý có đủ sáng suốt và sức mạnh để nhận thức rằng, trong khoảnh khắc lịch sử này, sự tồn tại hay biến mất của các quốc gia, có thể được quyết định mãi mãi.”
Hàng 365 ⟶ 367:
Cho dù cuộc tấn công gây thiệt hại trên diện rộng cho tàu chiến và máy bay Mỹ, nó đã không ảnh hưởng đến các cơ sở dự trữ nhiên liệu, xưởng sửa chữa và các cơ quan tình báo tại Trân Châu Cảng.
Cuộc tấn công là một cú sốc thật sự đối với tất cả các nước Đồng Minh tại Mặt trận Thái Bình Dương. Các thiệt hại tiếp theo sau tạo ra một sự thụt lùi đáng báo động. Ba ngày sau, sự kiện các tàu chiến [[đánh chìm Prince of Wales và Repulse|''Prince of Wales'' và ''Repulse'' bị đánh chìm]] ngoài khơi bờ biển [[Malaya]] khiến [[Thủ tướng]] Anh Quốc [[Winston Churchill]] sau này nhớ lại: "Trong suốt cuộc chiến tranh tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp đến như thế. Khi tôi trăn trở trên giường, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tâm trí tôi. Không còn chiếc tàu chiến chủ lực Anh hay
May mắn cho phía Hoa Kỳ, các tàu sân bay
Cuối cùng, các mục tiêu không nằm trong danh sách của Genda, như căn cứ tàu ngầm và ngôi nhà sở chỉ huy cũ, đã chứng tỏ tầm quan trọng lớn hơn mọi chiếc tàu chiến. Chính những chiếc tàu ngầm đã vô hiệu hóa những con tàu nặng nề của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đưa tình trạng kinh tế của Nhật Bản đến mức trì trệ bằng cách phá hỏng sự vận chuyển dầu mỏ và nguyên liệu thô. Tương tự, tầng hầm của ngôi nhà sở chỉ huy cũ là trụ sở của [[Trạm HYPO|đơn vị phân tích mật mã]] vốn đã góp phần đáng kể vào trận mai phục [[trận Midway|Midway]] và thành công của lực lượng tàu ngầm.
Hàng 374 ⟶ 376:
Đô đốc [[Tadaichi Hara|Hara Tadaichi]] đã tóm lược kết quả cuộc tấn công về phía Nhật Bản bằng một câu nói súc tích: ''"Chúng ta thắng một chiến thắng chiến thuật vĩ đại tại Trân Châu Cảng, và do đó đã thua cả cuộc chiến."''<ref>Haufler, Herve. ''Codebreaker's Victory: How the Allied Cryptographers Won World War II'' (New York: NAL, 2003), quoted p.127.</ref>
Trong khi đạt được các mục tiêu đặt ra, cuộc tấn công lại tỏ ra hoàn toàn không cần thiết. Điều mà [[Đô đốc]] [[Isoroku Yamamoto]] - người đầu tiên nghĩ ra kế hoạch - chưa bao giờ biết đến, đó là Hải quân
Tác giả [[Robert Leckie]] nhận xét rằng ''"Tổng thống Franklin Roosevelt đã khôn ngoan che dấu những chi tiết của thảm họa này hơn là chịu đựng nguy cơ về sự hoảng sợ của công chúng, và chỉ công bố những chi tiết này sau khi
== Những hình ảnh ==
Hàng 398 ⟶ 400:
* ''[[Tora! Tora! Tora!]]'' năm 1970 là một bộ phim về cuộc tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng. Nhiều người đã đánh giá nó là bộ phim trung thực nhất kể lại cuộc tấn công này vì nó liên hệ đến nhiều khía cạnh của trận đánh có chú ý đến các sự kiện có thật trong lịch sử.
* ''[[Trân Châu Cảng (phim)|Trân Châu Cảng]]'' (''Pearl Harbor'') là tựa của một bộ phim sản xuất năm [[2001]] về cuộc tấn công năm [[1941]]. Cuốn phim là một câu chuyện tình hơn là một biên niên sử chính xác của sự kiện này, cho dù một số sự kiện được trình bày đã thực sự xảy ra. Một số cảnh trong phim trên tàu được quay trên chiếc [[USS Lexington (CV-16)|''USS Lexington'']] ở [[Corpus Christi]], [[Texas]]. Phim được đạo diễn bởi [[Michael Bay]] và gồm các diễn viên [[Ben Affleck]], [[Josh Hartnett]], [[Cuba Gooding Jr.]] và [[Kate Beckinsale]].
* ''[[December 7th (phim)|December 7th]]'', đạo diễn bởi [[John Ford]] cho Hải quân
{{cite web
| url = http://hnn.us/articles/88.html
Hàng 417 ⟶ 419:
=== Phóng tác lịch sử ===
* ''[[Days of Infamy]]'' là một tiểu thuyết của [[Harry Turtledove]] trong đó việc Nhật Bản tấn công Hawaii không chỉ giới hạn trong việc không kích Trân Châu Cảng, mà là một cuộc tấn công toàn diện và chiếm đóng sau khi quân
* Trong game trên máy tính ''[[Command & Conquer: Red Alert 2]]'', Trân Châu Cảng là địa điểm hứng chịu một đòn tấn công của [[Liên Xô]] trong [[Thế Chiến III]]. Trong màn đầu tiên của loạt game Red Alert, Adolf Hitler được loại bỏ khỏi lịch sử bởi hệ thống ‘Chronosphere’ của Einstein, ngăn ngừa được sự diệt chủng hàng loạt (và suy đoán là không có vụ tấn công năm 1941 nhắm vào Trân Châu Cảng). Một vị tướng trong game đã bông đùa rằng “như là ai đó có thể tung một cuộc tấn công thành công vào nơi đây”. Điều thú vị là, Bảo tàng Tưởng niệm Arizona vẫn hiện diện trong game, cho dù chiếc tàu đó không hề bị phá hủy do lịch sử trong game đã được thay đổi.
* Tiền đề của việc không kích và chiếm đóng Hawaii trong ''Days of Infamy'' trước đó đã được sử dụng trong phần thứ nhất của loạt phim hoạt hình OVA ''[[Konpeki no Kantai]]''. Trong phần này, quân Nhật thực hiện cuộc tấn công vào những giờ đầu tiên của buổi sáng, và có các hoạt động tàu sân bay ban đêm hoàn hảo. Cuộc không kích được mở đầu bằng một pháo sáng được những [[máy bay chỉ điểm]] thả xuống. Toàn bộ căn cứ (kể cả các xưởng sửa chữa) và một số tàu tiếp liệu trong cảng bị tiêu diệt vào buổi sáng sớm. Đối phó với lực lượng chủ yếu của Hạm đội Thái Bình Dương, Hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã tái bố trí lại và tiêu diệt khi chúng quay trở lại Trân Châu Cảng. Phần này, vốn được chia thành ba hiệp trong loạt game mang cùng tên, kết thúc với việc quân Nhật đổ bộ lên tất cả các hòn đảo ở Hawaii.
Hàng 646 ⟶ 648:
* Larry Kimmett and Margaret Regis, ''[http://www.navpublishing.com/index.htm The Attack on Pearl Harbor: An Illustrated History]'' (NavPublishing, 2004). Quyển sách này sử dụng các bản đồ, hình ảnh, minh hoạ và một CD hoạt hình để cung cấp một cái nhìn tổng quát có chi tiết về cuộc tấn công bất ngờ đã khiến Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến II.
* [[Walter Lord]], ''Day of Infamy'' (Henry Holt, 1957) là một tài liệu đáng đọc, và toàn bộ là giai thoại, kể về các sự kiện trong ngày hôm đó.
* W. J. Holmes, ''Double-Edged Secrets: U.S. Naval Intelligence Operations in the Pacific During World War II'' (Naval Institute, 1979) chứa đựng một số thông tin quan trọng, như là tranh luận của Holmes rằng nếu Hải quân
* Michael V. Gannon, ''Pearl Harbor Betrayed'' (Henry Holt, 2001) là một khảo sát gần đây về các vấn đề chung quanh sự bất ngờ của cuộc tấn công.
* Frederick D. Parker, ''[http://www.history.navy.mil/books/comint/ Pearl Harbor Revisited: United States Navy Communications Intelligence 1924–1941]'' (Center for Cryptologic History, 1994) chứa đựng một mô tả chi tiết những gì Hải quân biết được qua các bức điện Nhật Bản bắt được và giải mã trước sự kiện Trân Châu Cảng.
Hàng 654 ⟶ 656:
* [[Hamilton Fish]], ''Tragic Deception: FDR and America's Involvement in World War II'' (Devin-Adair Pub, 1983) ISBN 0-8159-6917-1
* John Toland, ''Infamy: Pearl Harbor and Its Aftermath'' (Berkley Reissue edition, 1986 ISBN 0-425-09040-X) là một báo cáo xuất sắc của một tác giả từng nhận được [[giải thưởng Pulitzer]], cho dù nhiều người nghĩ rằng ông không cũng cố các lập luận của mình một cách hoàn hảo như được mong đợi trong các hội nghị hàn lâm.
* [[Robert Stinnett]], ''[http://www.pearlharbor41.com/ Day of Deceit: The Truth About FDR and Pearl Harbor]'' (Free Press, 1999) Một nghiên cứu về các văn kiện của Luật Tự do Thông tin đã khiến Quốc hội
* [[Edward L. Beach]], ''Scapegoats: A Defense of Kimmel and Short at Pearl Harbor''ISBN 1-55750-059-2
* Andrew Krepinevich, {{PDFlink|[http://www.csbaonline.org/4Publications/Archive/R.20020225.Lighting_the_Path_/R.20020225.Lighting_the_Path_.pdf]|186 [[Kibibyte|KiB]]<!-- application/pdf, 191262 bytes -->}} ''(Center for Strategic and Budgetary Assessments)'' chứa một đoạn về cuộc tấn công Yarnell, và các ghi chú trích dẫn tham khảo.
|