Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Tiểu La”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
 
==Thân thế và sự nghiệp==
'''Nguyễn Tiểu La''' còn có tên là '''Nguyễn Hàm''', hay '''Ấm Hàm''', tự là '''Triết Phu''', hiệu là '''Nam Thạnh''', sau đổi thành '''Tiểu La''', nên thường được người đời quen gọi là '''Tiểu La Nguyễn Thành''', hay '''Tiểu La Thành''', hay '''Nguyễn Tiểu La'''. Ngoài ra, ông còn được gọi là '''Ấm Hàm.'''
 
Ông sinh năm 1863, tại làng Thạnh Mỹ, phủ Thăng Bình (nay là thôn Quý Thạnh, xã Bình Quý, huyện [[Thăng Bình]], tỉnh [[Quảng Nam]]), trong một gia đình theo [[Nho giáo]].
 
Vốn tính thông minh, từ thuở nhỏ ông thường chuyên chú đọc các loại binh thư như ''Ngũ hầu tâm thư'', ''Tôn tử binh pháp'', cùng các loại sử địa nước nhà... điều ấy đã cho thấy trong ông đã có hoài bão là muốn hiểu biết để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân chứ không có ý muốn làm quan. Sự thông minh và ý chí của ông đã được chí sĩ [[Phan Bội Châu]] nhận xét: ''Tiên sinh lúc nhỏ thông minh đĩnh ngộ, lớn lên có tính khẳng khái, khác thường. Đầu tiên học [[chữ Hán]], nghe hiểu nhớ nhiều hơn cả bạn bè''.
 
Thân sinh ông là Nguyễn Trường, làm Bố chánh sứ tỉnh [[Bình Định]], hàm Tham Tri dưới thời [[Tự Đức]], sau đó mất tại [[Bình Định]]. Nguyễn Thành, khi đó hãy còn là thiếu niên, đã đứng ra chủ trì việc đưa thi hài thân sinh từ Bình Định về chôn cất tại quê nhà, thể hiện đức tính tự chủ và tháo vát ngay từ nhỏ.
 
Năm 1885, ông ra [[Huế]] [[thi Hương]], nhưng do vụ [[Trận Kinh thành Huế 1885|binh biến kinh thành Huế]] nên kỳ thi không tổ chức được. Ông trở lại quê nhà, từ bỏ đèn sách, hưởng ứng phong trào Nghĩa Hội. Với tư cách là ấm sinh, ông chiêu mộ một cánh quân, hiệp cùng Nghĩa Hội đánh thành tỉnh Quảng Nam, lúc này ông mới vừa tròn 18 tuổi.
 
Sau khi Pháp chiếm lại thành tỉnh [[Quảng Nam]], họ đưa quân đi càn quét vào các huyện, xã; Nguyễn Thành đã cho cho quân mai phục, đánh thắng nhiều trận, uy tín được nâng cao. Phó bảng [[Nguyễn Duy Hiệu]] giao cho ông chức Tán Tương quân vụ kiêm Thượng Biện tỉnh vụ và khi Án Nại hy sinh tại mặt trận Phú Thượng, ông được chỉ định thay thế; nghĩa binh dưới quyền chỉ huy của ông đã mở nhiều trận đột kích vào [[Đà Nẵng]].
 
Năm 1887, khi phong trào Nghĩa Hội bị thất bại, Nguyễn Thành vẫn tiếp tục tổ chức chiến đấu. ĐạiViên quan [[nhà Nguyễn]] thân Pháp là thần [[Nguyễn Thân]] tìm cách bắt sống ông, sau đó muốntìm mọi cách mua chuộc ông nhưng không thành, nênbèn kết án quản thúc ông tại quê nhà. Tuy nhiên, ông vẫn tìm cách bí mật hoạt động. Tại sơn trang Nam Thạnh, ông liên lạc với các văn nhân, sĩ phu yêu nước trong tỉnh và cả nước, chờ thời cơ giúp dân, cứu nước.
 
Năm 1903, Phan Bội Châu đã đến sơn trang để tìm gặp Nguyễn Thành. Năm 1904, Hội nghị thành lập [[Duy Tân hội]] đã diễn ra tại đây, ông là một trong những người có công lớn trong việc sáng lập và tổ chức Duy Tân hội. Sau khi Phan Bội Châu sang [[Nhật]], Nguyễn Thành bí mật hoạt động ở trong nước, ông vận động kinh phí, đưa thanh niên ra nước ngoài du học để chuẩn bị lực lượng cứu nước.
 
Năm 1908, cùng lúc phong trào Duy Tân hội đang phát triển mạnh, cuộc kháng thuế ở [[Trung Kỳ]] đã nổ ra. Chính quyền [[Pháp]] thẳng tay đàn áp và truy bắt các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Thành cũng bị bắt giữ và bị kết án 9 năm biệt xứ, đày đi [[Côn Đảo]]. Ông qua đời tại đây vào ngày [[11 tháng 11]] năm 1911. Mãi đến năm 1957, thi thể của ông mới được đưa về cải táng tại quê nhà.
 
==Bài thơ tuyệt mệnh==
Ở trong nhà lao [[Côn Đảo]], Nguyễn Thành bị bịnh hành hạ đến thổ huyết. Biết không thể sống được nữa, ông viết bài thơ cuối cùng gởi lại những người bạn tù như sau:
 
:Nhất sự vô thành mấn dĩ ban
Dòng 43:
 
==Câu đối điếu==
Nguyễn Thành mất, một đồng chí và là bạn tù của ông là [[Nguyễn Đình Kiên]] (?-1942), người [[Hương Sơn]] ([[Hà Tĩnh]]), có làm câu đối điếu như sau:
:Quân hầu kỳ Hoành Sơn nam chi hào dư, tiền Cần vương sự, hậu ứng nghĩa trào, trấp tải kinh doanh, điệp điệp cương trường lưu phiến mặc.
:Ngô bối vị Hồng Lạc tổ giả tử nhĩ, hoành hữu bát hoang, tung hữu thiên cổ, đương niên tâm sự, ngao ngao dư luận phó giang vân.
 
Huỳnh Thúc Kháng dịch:
:''Quân hầu rõ bực hào phía Nam núi Hoành Sơn chăng? [[Cần vương]] lớp trước, Tân đảng lớp sau, nửa kiếp kinh doanh, khảng khái tâm thành ghi nét mực.
:''Chúng ta chết vì để báo đền cho tổ Hồng Lạc đấy! Tám cõi bề ngang, nghìn xưa bề dọc, một bầu tâm sự, xôn xao miệng thế phó chòm mây!<ref> Huỳnh Thúc Kháng dịch (''Thi tù tùng thoại''). Dẫn lại theo ''Hợp tuyển thơ văn Việt Nam'' (1858-1920), quyển 2. Nxb Văn học, 1985, tr. 327-328.</ref>
 
==Liên kết ngoài==