Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Văn Khôi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bản đồ không đúng
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lê Văn Khôi''' (? – 1834–1834) tên thật là '''Bế - Nguyễn Nghê''' , còn được gọi là '''Hai Khôi'''<ref name="a"> Theo Nguyễn Phan Quang, ''Việt Nam [[thế kỷ XIX19]]'', NXB TP. HCM, 2002, tr. 230-237</ref>, '''Nguyễn Hựu Khôi'''<ref> [[Trần Trọng Kim]], ''Việt Nam sử lược'', ghi Nguyễn Hữu Khôi.</ref> hay '''Bế Khôi''', là con nuôi, là thuộc tướng của [[Lê Văn Duyệt]] và là người thủ lĩnh cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn ở [[thành Phiên An]] (tức vùng [[Gia Định]] cũ, nay thuộc [[Thành phố Hồ Chí Minh]], [[Việt Nam]])<ref>Xem chi tiết bài [[Thành Gia Định]]</ref>.
 
== Thân thế & sự nghiệp ==
Căn cứ ''Tộc phả Bế - Nguyễn'', ông tổ đời thứ 9 của Lê Văn Khôi, vốn họ Nguyễn tức Nguyễn Tông Thái. Đời ông tổ đời thứ 8 đổi theo họ tỗ mẫu (họ mẹ), gọi là Bế Công. Đến ông tổ đời thứ 5, vì có công dẹp [[nhà Mạc]] nên đời đời tập chức phiên thần, cai quản địa phương và trở thành dòng họ lớn ở [[Cao Bằng]].
 
Đến tháng 9 năm [[Canh Thân]] (1740), năm đầu Cảnh Hưng, vua [[Lê Hiển Tông]] lại cho đổi làm họ Bế - Nguyễn<ref name="a"> Theo Nguyễn Phan Quang, ''Việt Nam thế kỷ XIX'', Nxb.TP. HCM[[Thành phố Hồ Chí Minh,]] 2002, tr. 230 - 237.</ref>.
 
Cũng theo tộc phả này, Lê Văn Khôi là con trai Bế Kiện. Ông là người cao lớn, dũng mãnh, ăn nhiều, tính hay khôi hài, tài võ xuất chúng... Về võ nghệ, tương truyền khi vào Gia Định, có lần Lê Văn Khôi dùng tay không chống lại cọp dữ cho sứ thần nước [[Xiêm]] xem. Về tài văn, bổn tuồng ''San hậu'', có nhiều đoạn do ông nhuận sắc<ref>[[Vương Hồng Sển]], ''Khảo về đồ sứ men lam (Huế)'', NXB Mỹ thuật, 1994, tr. 208). Trong ''Gia Định xưa'' (Huỳnh Minh soạn. Nxb. VHTT in lại năm 2006, tr. 160) có thêm chi tiết: "Tương truyền, vào năm 1920, khi Lê Văn Duyệt đi kinh lược vùng [[Thanh Hóa]], có Lê Văn Khôi đi theo hầu. Lúc hai ông ghé thăm mộ [[Võ Tánh]] ở [[Bình Định]], nhìn tháp Cánh Tiên nơi cố đô của [[Chiêm Thành]], Ông Khôi đã xúc cảm làm một thơ Đường luật, trong đó có hai câu cuối còn được truyền tụng: ''Ca quản lâu đài vân cộng khứ/ Duy dư Tiên tháp lão càn khôn (nghĩa: Tiếng đàn hát ca xang, đã cùng mây bay đi mất/ Chỉ còn một tháp Cánh Tiên thi gan cùng tuế nguyệt, khoe già với trời đất)''. Điều đó chứng tỏ Lê Văn Khôi là người văn võ toàn tài.</ref>.
 
=== Theo Lê Văn Duyệt ===
Sách ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' chép:
Sách ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' ghi: ''“nămNăm Gia Long thứ 18 (1819), ở hai trấn Thanh Nghệ và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình), Thiên Quan (tên phủ, nay đổi là Nho Quan), những lưu dân, thổ phỉ tụ họp nhau làm giặc, quan sở tại không kiềm chế nổi, vua sai tả quân Lê Văn Duyệt tới đó kinh lược. (Khi ấy) Khôi mộ quân lệ thuộc dưới trướng, đánh dẹp thường có công. Duyệt yêu mến dùng làm nanh vuốt”vuốt''<ref>Dẫn[[Quốc lạisử theoquán (triều Nguyễn)|Quốc Phansử Quangquán triều Nguyễn]] ([[Cao Xuân Dục]] làm Tổng tài), ''ViệtĐại Nam thếchính kỷbiên XIXliệt truyện'', NXB. TPNxb. HCM,Văn 2002học, tr.2004, 2341016.</ref>.
 
Sử gia [[Trần Trọng Kim]] cho biết chi tiết:
Sử gia [[Trần Trọng Kim]] cho biết chi tiết:'' Lê Văn Khôi, khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào [[Thanh Hóa]], gặp Lê Văn Duyệt xin đầu thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về [[Gia Định]] cất nhắc cho làm đến phó vệ úy''<ref name="b">Trần Trọng Kim, ''Việt Nam sử lược'', NXB. Tân Việt, [[Sài Gòn]], 1968, tr.445.</ref>.
 
Nhưng theo GS. Nguyễn Phan Quang tìm hiểu thì: ''rất có thể Lê Văn Khôi rời [[Cao Bằng]] đi đến vùng thượng du [[Hòa Bình]], Thanh Hóa (nơi vốn có mối quan hệ lâu đời với dòng họ của Lê Văn Khôi), nhằm liên kết với cuộc đấu tranh của các lang đạo họ Đinh, họ Quách của dân tộc Mường. Và Lê Văn Khôi đã đi theo Lê Văn Duyệt vào khoảng thời gian lãnh tụ Quách Tất Thúc và 2 con đầu hàng Duyệt và được Duyệt cho theo quân thứ''<ref name="a">Theo Nguyễn Phan Quang, ''Việt Nam thế kỷ XIX'', NXB TP. HCM, 2002, tr. 230 - 237</ref>.
Sử gia [[Trần Trọng Kim]] cho biết chi tiết:'' Lê Văn Khôi, khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt xin đầu thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến phó vệ úy''<ref name="b">Trần Trọng Kim, ''Việt Nam sử lược'', NXB. Tân Việt, 1968, tr.445.</ref>.
 
Nhưng theo GS. Nguyễn Phan Quang tìm hiểu thì ''rất có thể Lê Văn Khôi rời Cao Bằng đi đến vùng thượng du Hòa Bình, Thanh Hóa (nơi vốn có mối quan hệ lâu đời với dòng họ của Lê Văn Khôi), nhằm liên kết với cuộc đấu tranh của các lang đạo họ Đinh, họ Quách của dân tộc Mường. Và Lê Văn Khôi đã đi theo Lê Văn Duyệt vào khoảng thời gian lãnh tụ Quách Tất Thúc và 2 con đầu hàng Duyệt và được Duyệt cho theo quân thứ''<ref name="a">Theo Nguyễn Phan Quang, ''Việt Nam thế kỷ XIX'', NXB TP. HCM, 2002, tr. 230 - 237</ref>.
=== Khởi binh chống nhà Nguyễn ===
:''Bài chính:'' ''[[Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi]]''
Hàng 18 ⟶ 22:
Năm 1832, Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất vì bệnh, vua [[Minh Mạng]] vốn không bằng lòng Duyệt từ trước, liền cho bãi chức Tổng trấn thành Gia Định, chia vùng đất miền Nam do Duyệt cai quản ra làm 6 tỉnh (Nam Kỳ lục tỉnh), cắt đặt quan lại vào thay và dựng lên vụ án Lê Văn Duyệt...<ref>Sau, Lê Văn Duyệt bị vu nhiều tội, nên mồ mả bị xiềng, tài sản bị tịch thu, vợ và các thuộc hạ thân tín đều bị bắt giam (xem thêm [[Lê Văn Duyệt]]).</ref>
 
Trong những quan lại ấy có Nguyễn Văn Quế làm Tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm Bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm Án sát. Và ''vốn là người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm bố chính ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước (trong số đó có Lê Văn Khôi bị cầm tù)''<ref name="b">Trần Trọng Kim, ''Việt Nam sử lược'', NXB Tân Việt, 1968, tr.445</ref>.
 
Đến đêm ngày 18 tháng 5 năm [[QuíQuý Tỵ]] (1833), Khôi cùng với 27 người lính hồi lương<ref>Bắc thuận hay Hồi lương là những người ở [[miền Bắc Việt Nam|miền Bắc]] hay [[miền Trung Việt Nam|Trung]], bị tội phải đày vào làm lính ở [[Nam Kỳ]].</ref>vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, người trực tiếp lo vụ án Lê Văn Duyệt. Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt. Còn quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được. Phó lãnh binh Phiên An là Giả Tiến Chiêm đem hơn 400 lính chống lại nhưng bị thua bỏ chạy.
Sau đó, Lê Văn Khôi cho mở cửa tù, thả hết phạm nhân và phát khí giới cho họ. Ông tự xưng là Đại nguyên súy, phong quan tước cho thuộc hạ, rồi cùng lập một triều đình riêng.
 
Chiếm được [[Thành Gia Định|thành Phiên An]], Lê Văn Khôi sai Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành. Chỉ trong vòng chưa đầy một tháng, sáu tỉnh [[Nam Kỳ]] đều thuộc về quân nổi dậy.
 
=== Thành Phiên An thất thủ ===
Hay tin, vua [[Minh Mạng]] liền cử Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Văn Thúy, [[Trương Minh Giảng]] và Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi.
 
Địa chủ, phú hào các nơi dao động, không dám ủng hộ ông nữa. Tiếp đó, một tướng giỏi của ông là Thái Công Triều (quê [[Thừa Thiên]], nguyên là vệ úy coi vệ biền binh ở Phiên An và là người được Khôi giao quản lĩnh phân nửa Nam Kỳ) cũng bất ngờ đầu hàng triều đình, khiến lực lượng nổi dậy suy yếu nhanh chóng. Nhân cơ hội này, các tướng nhà Nguyễn nhanh chóng thu phục lại các tỉnh đã mất. Lê Văn Khôi phải rút vào thành Phiên An cố thủ, rồi nhờ các giáo sĩ [[phương Tây]] sang [[Xiêm]] cầu viện. Vua Xiêm nhân muốn lấn đất Đại Nam nên điều quân sang giúp.
 
Đầu năm 1834, Lê Văn Khôi bị bệnh phù thũng, chết ở trong thành, không rõ bao nhiêu tuổi<ref>"Quốc''Đại triềuNam chính biên Toátliệt yếu"truyện'' ghi ông mấtVăn cuốiKhôi nămmất 1833tháng 12 ([[âm lịch]]) năm 1833, tức đầu năm 1834 (sách đã dẫn, tr.1033)</ref>. Con trai ông là Lê Văn Cù mới 8 tuổi<ref>Ghi theo ''Đại Nam chính biên liệt truyện'' (tr. 1033). Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (''Từ điền nhân vật lịch sử Viêt Nam''. Nxb. KHXH, 1992, tr. 392) ghi là ''Lê Văn Câu''. Sách ''Sài Gòn - TP. HCM'' do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên, ghi ''Lê Văn Cú''. Trần Trọng Kim (sách đã dẫn) ghi 7 tuổi.</ref> được cử lên thay. Tướng Nguyễn Văn Trắm (em họ ông) đứng ra chỉ huy quân lính trong thành.
 
Thành Phiên An cố thủ được tới ngày 16 tháng 7 năm 1835, thì bị quân triều đình chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành. Quân nổi dậy chống cự không nổi, thất thủ, 1.831 người gồm cả già trẻ, gái trai đều bị chém chết<ref>Ghi theo Trần Trọng Kim (sách đã dẫn), Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế (''Từ điền nhân vật lịch sử Viêt Nam''). Riêng sách ''Hỏi đáp lịch sử Việt Nam'' ghi 1.737 người (NXB. Trẻ, 2007). NguyểnNguyễn Phan Quang (sách đã dẫn) cho biết căn cứ vào những bản mật tấu thì con số bị bắt giết là 1.284 người. Phần quân triều đình, con số bị thương hơn ngàn và bị chết trong công cuộc đánh dẹp là 2431 người.</ref> chôn chung một chỗ, sau này gọi là “Mả Ngụy"<ref>Mả Ngụy ở gần Mô súng, khoảng gần Ngã Sáu công trường Dân chủ. Theo ''Địa chí văn hóa TP. HCM'', (phần lịch sử,) do [[Trần Văn Giàu]], [[Trần Bạch Đằng]], Nguyễn Công Bình cùng chủ biên, xuất bản năm 1987. Xem thêm bài viết về đồng Mả Ngụy [http://www2.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2006/7/24/156617.tno] và [http://www.quan10.hochiminhcity.gov.vn/Default.aspx?tabid=74&ctl=Detail&mid=484&ArticleID=ARTICLE06080004].</ref>.
 
== Nhận xét ==
M. Gaultier viết:
:''Không như các sử của triều Nguyễn đã nói Lê Văn Khôi chỉ là một kẻ phiến động tầm thường, có nhiều tham vọng và vô tư cách. Thực ra, Khôi là một người võ nghệ tuyệt luân, có nhân phẩm cao quý, có tài giao thiệp, có huyết khí cương cường, có tinh thần hào hiệp, biết chỉ huy...nên rất được những người chung quanh cảm mến. Nhờ vậy mà sau tiếng hô của Khôi hàng trăm ngàn gia đình dân chúng miền Nam vùng ngay dậy...''<ref> Dẫn theo [[Phạm Văn Sơn]], ''[[Việt sử tân biên]]'', (quyển IV4), Tủ sách sử học Việt Nam, 1961, tr. 352.</ref>
 
Đánh giá cuộc binh biến, nhóm tác giả sách ''Sài Gòn - TP. HCM'' nêu ý kiến:
:''Cuộc binh biến này, thực chất chỉ là một cuộc đảo chính quân sự của một tầng lớp thống trị địa phương, nhằm chống lại nhà nước phong kiến trung ương, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của nhân dân, mặc dù nó đã lôi cuốn được nhiều thành phần, như: giáo dân [[Thiên chúa]], một số Hoa kiều, một số dân tộc ít người vùng [[Tây Ninh]], binh lính quê ở miền Bắc, miền Trung, một số địa chủ, dòng dõi công thần và một số quan lại dưới quyền Lê Văn Duyệt...Nhưng cuộc binh biến chưa có biểu hiện nào cho thấy nó đã nổ ra vì nguyện vọng và vì lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân...''<ref>TheoNhiều người soạn, ''Sài Gòn - TP. HCM'' do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên (NXB Trẻ, 2006, tr. 100)</ref>
 
Tuy nhiên, GS. Nguyễn Phan Quang có ý kiến khác rằng:
:''Có tác giả cho rằng cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi là của những người theo [[Thiên Chúa giáo|đạo Gia Tô]], do các giáo sĩ chủ mưu. Có tác giả lại nghĩ rằng đây chỉ là mưu đồ lật đổ của một phe phái trong tầng lớp thống trị chống Minh Mạng. Có ý kiến còn cho rằng đây là một cuộc bạo loạn, một mưu đồ phản động, phản dân tộc (!)...Xét những thành phần chính đi theo Lê Văn Khôi bao gồm: giáo dân, [[người Hoa]], các dân tộc thiểu số (người [[Chăm]], người [[Khmer]], một số người dân tộc ở [[Tây Nguyên]]), quân “Hồi"Hồi lương, Bắc thuận”thuận", và một số đông dân lục tỉnh...Vậy có thể nghĩ rằng ít nhất trong giai đoạn đầu, cuộc nổi dậy do Lê Văn Khôi khởi xướng đã gắn bó với phong trào đấu tranh của nông dân và của các dân tộc chống triều Nguyễn...Và từ mối quan hệ giữa hai cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi và của [[Nông Văn Vân]], đã cho thấy họ có chung một ý đồ là cùng nổi dậy trong phạm vi cả nước nhằm lật đổ triều Nguyễn. Rõ ràng không phải Lê Văn Khôi nổi dậy chỉ nhằm mục đích trả thù cho Lê Văn Duyệt, càng không phải vì thân thuộc của Khôi ở Cao Bằng bị truy nã mà nổ ra cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân.''<ref>Nguyễn Phan Quang, ''Việt Nam thế kỷ XIX19'', tr. 239, 249 và 253.</ref>.
 
== Chú thích ==