Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tái sinh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
German article updated.
TCN (thảo luận | đóng góp)
Dòng 2:
 
==Khái niệm Cơ Đốc==
{{Kitô giáo}}
Được sinh lại, theo Cơ Đốc giáo, đồng nghĩa với sự tái sinh thuộc linh, và trong nhiều truyền thống giáo hội, cũng đồng nghĩa với sự cứu rỗi, dù có sự khác biệt đôi chút khi thuật ngữ này được sử dụng trong các truyền thống khác nhau.
 
Tái sinh được đề câp đến lần đầu trong chương thứ ba của Phúc âm [[Giăng]], khi [[Nicodemus]], một học giả [[Do Thái giáo]], tìm đến gặp [[Giê-su|Chúa Giê-suxu]]:
:"''Trong vòng [[người Pharisee]] có một người tên Nicodemus, là một trong những kẻ cai trị dân Giu-đa (Do Thái). Ban đêm, người nầy đến cùng Chúa Giê-xu mà nói rằng: Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ [[Thiên Chúa]] đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Thiên Chúa không ở cùng thì không ai làm được. Chúa Giê-suxu cất tiếng đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng sanh lại, thì không thể thấy nước Thiên chúa. Nicodemus thưa rằng: Người đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở vào lòng mẹ và sanh lần thứ hai sao? Chúa Giê-xu đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Chúa Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Thiên Chúa. Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt; hễ chi sanh bởi Thánh Linh là thần. Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với ngươi: Các ngươi phải sanh lại''". (Giăng 3. 1-7)
 
Hầu hết các giáo phái Cơ Đốc đều tin rằng một người cần phải được sinh lại thì mới có thể trở thành [[Cơ Đốc nhân]], như thế tất cả tín hữu Cơ Đốc, trong thực tế, đều phải là người đã trải nghiệm sự tái sinh thuộc linh. Điển hình, [[Giáo hội Công giáo La mã]] cho rằng "Lễ rửa tội ([[báp têm]]) là .... thánh lễtích, nhờ đó chúng ta được sinh lại bởi nước và Thánh Thần", dù thuật ngữ này không được sử dụng thường xuyên trong giáo hội. Đây cũng là xác tín của [[Chính thống giáo]], [[Anh giáo]], [[Giáo hội Luther]], cùng với các truyền thống Cơ Đốc khác. Tuy nhiên, ấy là tín hữu thuộc các trào lưu [[Phong trào Nền tảng|Nền tảng]], [[Ngũ Tuần]] và [[Phong trào Tin Lành|Tin Lành]] trong cộng đồng Kháng Cách là những người yêu thích và thường xuyên sử dụng thuật ngữ này để miêu tả những trải nghiệm của họ trong sự qui đạo, cũng như sự tiếp xúc cá nhân giữa họ với quyền năng của Thiên Chúa. Nhiều tín hữu Cơ Đốc được "tái sinh" theo ý nghĩa này thường không chịu chấp nhận một sự qui đạo là chân xác nếu không có trải nghiệm "tái sinh".
 
Ý niệm được sinh lại đồng hành với một khái niệm thần học dạy rằng Cơ Đốc nhân là một sự tạo dựng mới (''new creation''), bởi hành động của Thiên Chúa mà được ban cho một sự khởi đầu mới, được giải cứu khỏi cuộc đời [[tội lỗi]] và được ban cho năng lực để bắt đầu một cuộc đời mới trong mối tương giao mật thiết với Chúa Giê-suxu qua [[Chúa Thánh ThầnLinh]]. Một tín hữu đã qua trải nghiệm tái sinh là người vĩnh viễn từ bỏ con người của bản chất cũ; đời sống cũ đã qua đi để bắt đầu một sự sống mới; nay người ấy là một tạo vật mới trong Chúa Giê-xu, đồng chết với ngài để được giải cứu khỏi sự định tội, và đồng sống lại với ngài trong cuộc sống công chính ("''Vậy, nếu ai ở trong Chúa Cơ Đốc, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới''". Corinthians 5. 17).
 
Hiện nay, tái sinh là thuật ngữ được gắn kết chặt chẽ với phong trào phục hưng Tin Lành, khởi phát từ cuối [[thập niên 1960]] tại [[Hoa Kỳ]], về sau lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới. Thuật ngữ này được dùng để miêu tả kinh nghiệm qui đạo cách sống động, dần dà được dùng để ám chỉ những tín hữu sùng kính. Giữa [[thập niên 1970]], danh xưng tín hữu Cơ Đốc tái sinh (''born again Christian'') ngày càng được nhắc đến nhiều hơn bởi các phương tiện truyền thông đại chúng, đến nỗi trong chiến dịch tranh cử [[Tổng thống Hoa Kỳ|tổng thống]] năm [[1976]], [[Jimmy Carter]] đã sử dụng thuật ngữ này để miêu tả trải nghiệm sống đạo của ông.
 
==Xem thêm==