Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đoàn Nguyễn Tuấn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đem thơ sang wikisource
Dòng 1:
[[File:Tập thơ Đoàn Nguyễn Tuấn.jpg|nhỏ|phải|200px|Tác phẩm "Thi tập" của Đoàn Nguyễn Tuấn đang được trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung (Bình Định).]]
'''Đoàn Nguyễn Tuấn''' (1750-?), hiệu ''Hải Ông'', là nhà thơ thời [[nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], [[Việt Nam]].
==Tiểu sử==
'''Đoàn Nguyễn Tuấn''' quê làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, nay là huyện [[Quỳnh Phụ]], tỉnh [[Thái Bình]].
Hàng 23 ⟶ 24:
Do thơ chép trong bản thảo<ref>Bản chép tay ''Hải Ông thi tập'' mang ký hiệu A. 2603 ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm ([[Hà Nội]]).</ref>không theo trình tự nào, nên nhóm tác giả sách Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn, đã căn cứ vào nội dung thơ mà chia thành hai mảng:
*Thơ văn làm ở trong nước: 139 bài.
*Thơ văn làm khi đi sứ và bang giao: 102 bài.
==Giá trị trong văn học Việt==
Sách ''Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam'' đã đánh giáTrong ''Hải Ông thi tập'' như sau:
:''Hải Ông thi tập ghi lại tâm tư và hoạt động trong thời gian làm quan của Đoàn Nguyễn Tuấn. Có những bài bày tỏ niềm hào hứng, ca ngợi [[Trận Ngọc Hồi - Đống Đa|chiến thắng Đống Đa]] hoặc tự hào về đất nước. Cũng có những bài phản ánh ý nghĩ buồn nản, chán chường. Thơ ông được đánh giá là "đầy ý vị, ai oán mà hài hoà, trầm tư mà ngay thẳng" ([[Ngô Thì Nhậm]]), hoặc "tài văn chương đồn lừng các trạm quán, lạ thay ngọn bút như có sinh khí" (Trạng nguyên họ Tái (Zai), người [[Giang Tây]] (Jiangxi), Trung Quốc)<ref>''Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam'', bản điện tử: [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/Default.Aspx?param=2646aWQ9MzYzNTMmZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD0lYzQlOTBvJWMzJWEwbitOZ3V5JWUxJWJiJTg1bitUdSVlMSViYSVhNW4=&page=1]</ref>.
 
Đọc ''Hải Ông thi tập'' thì thấy có mấy chủ đề chính, gồm:
*Những bài chân thành và hào hứng ca ngợi võ công của đội quân Tây Sơn, đã mang lại cảnh thanh bình thịnh trị cho đất nước; hoặc biểu lộ niềm tự hào về nền văn hiến dân tộc, như: "Kỷ Dậu trọng thu thượng hoan nghênh tiếp sách sứ, tâm hữu Nguyễn Quế Kiên tặng thi nhị thủ, y nguyên vận phúc" (''Sáng sớm ngày hai mươi tháng mười một hạ được thành, mừng làm thơ''); "Quá [[sông Hồng|Nhị Hà]] quan Bắc binh cố lũy" (''Qua sông Nhị xem lũy cũ của quân [[nhà Thanh|Bắc]]''); "Trọng đông nguyệt, nhị thập thất nhật, tảo thời, khắc thành, hỷ tác"; "Cụ phong hậu cảnh sắc" (''Cảnh sắc sau cơn bão táp''), “Nam phong (''Gió Nam''); Ngự dinh cung kỳ (''Trong cung vua, kinh ghi''); "Đáp vấn" (''Trả lời câu hỏi'')...Ngần ấy cho thấy niềm phấn khởi, lòng tin, ý muốn đóng góp nhiều cho triều đại mới của ông. Tuy nhiên sau đó, nhận thấy vương triều này suy thoái nhanh chóng, nhất là sau khi vua Quang Trung đột ngột mất đi, khiến rải rác trong thơ ông không khỏi có những ý nghĩ bi quan, buồn chán...
Dòng 45:
Về mặt Nghệ thuật, thơ ông có nhiều hình tượng trong sáng, ít điển cố, câu thơ chải chuốt, thanh thoát, gợi cảm...<ref>Căn cứ nội dung thơ trong sách ''Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn''. Có tham khảo thêm bài viết của Phạm Tú Châu, trong ''Từ điển Văn học'' (bộ mới-tr. 431-432) và Tạ Ngọc Liễn (tr. 161-266).</ref>
 
''Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam'' đánh giá ''Hải Ông thi tập'' như sau:
==Giới thiệu thơ==
:''"Hải Ông thi tập" ghi lại tâm tư và hoạt động trong thời gian làm quan của Đoàn Nguyễn Tuấn. Có những bài bày tỏ niềm hào hứng, ca ngợi [[Trận Ngọc Hồi - Đống Đa|chiến thắng Đống Đa]] hoặc tự hào về đất nước. Cũng có những bài phản ánh ý nghĩ buồn nản, chán chường. Thơ ông được đánh giá là "đầy ý vị, ai oán mà hài hoà, trầm tư mà ngay thẳng" ([[Ngô Thì Nhậm]]), hoặc "tài văn chương đồn lừng các trạm quán, lạ thay ngọn bút như có sinh khí" (Trạng nguyên họ Tái [Zai], người [[Giang Tây]] [Jiangxi], Trung Quốc)<ref>''Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam'', bản điện tử: [http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/Default.Aspx?param=2646aWQ9MzYzNTMmZ3JvdXBpZD0ma2luZD0ma2V5d29yZD0lYzQlOTBvJWMzJWEwbitOZ3V5JWUxJWJiJTg1bitUdSVlMSViYSVhNW4=&page=1]</ref>.
{|valign="top"
{{wikisource tác giả|Đoàn Nguyễn Tuấn}}
|
:'''Quá Nhĩ hà quan Bắc binh cỗ lũy'''
 
:Sát khí xung khai vạn táo yên,
:Duy dư trĩ điệp [[sông Hồng|Nhĩ hà]] biên.
:Tải vinh thảo mộc huân tàn chiếu,
:Nhất độ can qua trọng đảo huyền.
:Ngũ Lĩnh quy hồn ưng vạn lý,
:Chương Dương vãng sự dĩ thiên niên.
:Giải tri hưng kế tu xuyên nhạc,
:Tảo hương Tây Sơn tống hạ tiên.
 
:Dịch nghĩa:
:'''Qua sông Nhị xem lũy cũ của quân [[nhà Thanh|Bắc]]'''
:''Khói từ muôn bếp (nấu ăn cho quân lính) xông lên đầy sát khí,
:''Nay chỉ còn trơ lại những mảnh tường lũy bên sông Nhĩ hà.
:''Cây cỏ được tươi tốt lại dưới bóng chiều,
:''Một phen gươm giáo làm cho dân vô cùng cực khổ.
:''Hồn giặc bay về Ngũ Lĩnh hàng muôn dặm,
:''Chuyện cũ Chương Dương nay đã nghìn năm.
:''Nếu biết trước việc “cứu giúp” ([[Lê Chiêu Thống]]) chỉ thêm xấu hổ với sông núi,
:''Thì sớm gửi thiếp chúc mừng đến nhà Tây Sơn.''
|
:'''Thu, dư nhập kinh, đông mạt thủy qui, nhân ức [[Nguyễn Du|Tố Như]] thị “Nhất quan bôn tẩu phong Trần Mạt” chi cú triền thành tứ vận'''
:Nhất quan bôn tẩu phong trần mạt,
:Bách tải xâm tầm điện lộ trung.
:Kỷ đóa hoàng hoa khai cựu kinh,
:Sổ hành bạch phát cảnh suy ông.
:Tang bồng vận sự tâm đô lãnh,
:Chung đỉnh tiền triều mộng diệc dung.
:Kiến thuyết nhân gia tương báo đạo,
:Nghinh xuân xứ xứ liễu đê đông.
 
:Dịch nghĩa:
:'''Mùa thu ta vào kinh, cuối đông mới về, nhân nhớ câu “Nhân quan bôn tẩu phong trần mạt của Tố Như bèn dàn thành bốn vần'''
:''Một chức quan bôn tẩu ở tận cuối làn gió bụi,
:''Trăm năm thấm thoát trong khoảng chớp giật móc sa.
:''Mấy đóa cúc vàng nở trên luống cũ,
:''Vài hàng tóc bạc nhắc nhở ông già.
:''Chuyện đẹp tang bồng, lòng đều nguội lạnh,
:''Triều xưa chung đỉnh, cũng biếng chiêm bao.
:''Thấy người ta đã kháo với nhau:
:''Khắp nơi đón xuân nơi mé đông bờ liễu.''
|}
{|valign="top"
|
:'''Nghĩ cổ [[Bạch Cư Dị|Bạch Lạc Thiên]] “Tự tiếu hành hà trì” chi tác'''
:Thu trung phát Quỳnh giang,
:Thu mộ để Chu thị
:Kế nhật du tam tuần,
:Khứ trình vị thập lý.
:“Tự tiếu hành hà trì?”
:Thử ý cực nan chỉ.
:Mạc ngôn đạo lộ trường,
:Mạc ngôn hương quốc dị,
:Mạc ngôn cân lực nhuyễn,
:Mạc ngôn đồng bộc tụy,
:Đãn vị tâm bất tiền,
:Xạ hành tiện dục chỉ.
:Bẩm tính bản thô sơ,
:Bão phụ vô tài trí,
:Cốt tướng khô dĩ bạc,
:Công danh đương bất khỉ (khởi).
:Tinh thần suy thả lãn,
:Vinh lạc phi sở thị,
:Xuất hoạn kinh ngũ niên,
:Bôn tẩu tổng vô vị.
:Phàm sự đương thoái lưu,
:Khởi độc hành dĩ nhĩ.
|
:Dịch nghĩa:
:'''Bắt chước bài thơ “Tự cười sao đi chậm” của ông Bạch Lạc Thiên đời xưa'''.
:''Giữa thu đi từ sông Quỳnh,
:''Cuối thu mới đến chợ Chu.
:''Tính này, đã quá ba tuần
:''Đường đi chưa được mười dặm.
:''Tự cười: Đi sao chậm thế!
:''Ý này nói thật khó.
:''Chớ bàn chuyện xa xôi,
:''Chớ bảo lạ làng lạ nước,
:''Chớ bảo gân cốt yếu ớt,
:''Chớ kêu tôi tớ nhọc mệt,
:''Chỉ vì lòng không muốn đi,
:''Vừa đi đã muốn dừng bước.
:''Bẩm tính vốn dĩ thô sơ,
:''Lại không tài trí gì ôm ấp,
:''Tướng mạo đã khô lại hèn,
:''Công danh chắc không kham nổi.
:''Tinh thần đã suy lại lười,
:''Chẳng hám vinh hoa lạc thú,
:''Làm quan đã trải năm năm
:''Tất tưởi những điều vô vị.
:''Mọi việc nên rút giữa chừng,
:''Riêng gì "chuyện đi" mà kể!<ref>Phiên âm Hán–Việt và dịch nghĩa chép theo sách ''Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn''.</ref>
|}
 
== Chú thích ==
{{reflist}}