Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếp tuyến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 17:
Những phương pháp này dẫn đến sự phát triển của [[vi phân]] trong [[thế kỷ 17]]. Nhiều người đã đóng góp, và [[Gilles de Roberval|Roberval]] phát hiện ra một phương pháp tổng quát cho việc vẽ tiếp tuyến, bằng cách xem xét một đường cong như một điểm di chuyển mà chuyển động của nó là kết quả của một số chuyển động đơn giản<ref>{{cite journal|last=Wolfson|first=Paul R.|year=2001|title=The Crooked Made Straight: Roberval and Newton on Tangents| journal=The American Mathematical Monthly | volume=108 | number=3 | pages=206–216 | doi=10.2307/2695381}}</ref>. [[René-François de Sluse]] và [[Johannes Hudde]] đã tìm ra thuật toán đại số để tìm ra các đường tiếp tuyến.<ref>{{cite book|last=Katz|first=Victor J.|year=2008|title=A History of Mathematics|edition=3rd|publisher=Addison Wesley|isbn=978-0321387004|pages=512–514}}</ref> Những phát triển sau đó bao gồm những thành tựu của [[John Wallis]] và [[Isaac Barrow]], đã dẫn đến lý thuyết của [[Isaac Newton]] và [[Gottfried Leibniz]].
 
Một định nghĩa năm 1828 của một tiếp tuyến là "một đường thẳng chạm vào một đường cong, nhưng không cắt nó".<ref>Noah Webster, ''American Dictionary of the English Language'' (New York: S. Converse, 1828), vol. 2, p. 733, [https://archive.org/stream/americandictiona02websrich#page/n733/mode/2up]</ref> Định nghĩa cũ này làm cho điểm uốn của đường cong không có tiếp tuyến. Định nghĩa này đã bị loại bỏ và các định nghĩa hiện đại tương đương với các định nghĩa của Leibniz, người đã xác định tiếp tuyến như một đường thẳng nối một cặp điểm gần nhau vô hạn trên đường cong.
 
==Tham khảo==