'''Chủ nghĩa thực dụng''' ([[tiếng Anh]]: ''pragmatism'') là một trường phái [[triết học]] thuộcchủ khuynhtrương hướngrằng khoamột họcchủ trongthuyết tràohay lưuluận triếtđề họcchỉ phiđúng cổkhi điểnnào đượcnó hìnhđưa thànhtới từkết nửaquả sautốt thếđẹp kỉvà XIXnhững (khoảngchủ từthuyết nămnào 1871không -đưa 1874)tới vàkết phátquả triểntốt mạnhđẹp mẽthì từphải đầunên thếbị kỷloại XXbỏ. NgườiTheo sángmột lậptrong những người phát triển ra chủ nghĩa thực dụngnày là triết gia [[CharlesWilliam PeirceJames]].Trườngthì pháimuốn triếtbiết họcmột nàyý đềtưởng caođúng kinhhay nghiệmsai vàthì hiệuphải dựa trên kết quả,trongthực đónghiệm nóchứ coikhông mọiphải hànhchỉ độngdựa củatrên conluận ngườilý làviễn vìvông. mục
Chủ đíchnghĩa tìmthực kiếmdụng lợikhởi nhuậnđầu từ cuối thế kỷ 19 với triết gia Mỹ [[Charles Peirce]]. Qua đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa này được phát triển bởi các ông [[William James]], [[John Dewey]], và [[George Santayana]]. Đặc biệt trường phái này đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống - xã hội [[Mỹ]] và trở thành học thuyết triết học đặc trưng của Mỹ thời kỳ này. So với các trường phái triết học ở phương tây khi đó, chủ nghĩa thực dụng tỏ ra có ưu thế hơn ở một đặc điểm là nó phản ánh trực tiếp những nhu cầu về lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Do đó có thể nhận định rằng chủ nghĩa thực dụng là một học thuyết triết học với tư cách là hệ tư duy chủ đạo. Cùng với [[chủ nghĩa thực chứng]] (''positivism''), [[chủ nghĩa cấu trúc]] (''structuralism''), [[chủ nghĩa duy khoa học]] (''scientism'')...trong khuynh hướng khoa học hay duy lý hiện đại, chủ nghĩa thực dụng chủ trương con đường thứ 3 trong triết học, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ cả những vấn đề cơ bản của triết học vốn được đặt ra suốt nhiều thế kỷ qua, gắn các vấn đề của triết học với các vấn đề cụ thể của khoa học, nhất là khoa học thực nghiệm.