Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếp tuyến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 12:
[[Archimedes]] (khoảng 287 - 212 TCN) đã tìm ra tiếp tuyến với [[đường xoắn ốc Archimedes]] bằng cách xem xét đường đi của một điểm di chuyển dọc theo đường cong<ref name="Shenk"/>.
 
Trong thập niên 1630 [[Fermat]] phát triển kỹ thuật [[adequality]] để tính tiếp tuyến và các vấn đề khác trong vi phân và sử dụng cách tính này để tính toán tiếp tuyến cho hình parabol. Kỹ thuật adequality tương tự như tính sự khác biệt giữa <math>f(x+h)</math>và <math>f(x)</math> và chia nó cho số mũ của <math>h</math>. Độc lập với Fermat, [[Descartes]] cũng sử dụng [[phương pháp chuẩn hóa]] dựa trên quan sát rằng bán kính của một vòng tròn luôn luôn chuẩn hóa với đường tròn.<ref>{{cite book|last=Katz|first=Victor J.|year=2008|title=A History of Mathematics|edition=3rd|publisher=Addison Wesley|isbn=978-0321387004|page=510}}</ref>
 
Những phương pháp này dẫn đến sự phát triển của [[vi phân]] trong [[thế kỷ 17]]. Nhiều người đã đóng góp, và [[Gilles de Roberval|Roberval]] phát hiện ra một phương pháp tổng quát cho việc vẽ tiếp tuyến, bằng cách xem xét một đường cong như một điểm di chuyển mà chuyển động của nó là kết quả của một số chuyển động đơn giản<ref>{{cite journal|last=Wolfson|first=Paul R.|year=2001|title=The Crooked Made Straight: Roberval and Newton on Tangents| journal=The American Mathematical Monthly | volume=108 | number=3 | pages=206–216 | doi=10.2307/2695381}}</ref>. [[René-François de Sluse]] và [[Johannes Hudde]] đã tìm ra thuật toán đại số để tìm ra các đường tiếp tuyến.<ref>{{cite book|last=Katz|first=Victor J.|year=2008|title=A History of Mathematics|edition=3rd|publisher=Addison Wesley|isbn=978-0321387004|pages=512–514}}</ref> Những phát triển sau đó bao gồm những thành tựu của [[John Wallis]] và [[Isaac Barrow]], đã dẫn đến lý thuyết của [[Isaac Newton]] và [[Gottfried Leibniz]].