Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Canxit”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: Xóa inwiki vi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
| image = Calcite-HUGE.jpg
| imagesize = 200
| caption = Can xít khúc xạ képđúp từ Dixon, New Mexico.
| formula = CaCO<sub>3</sub>
| symmetry = Ba phương {{overline|3}}2/m
Dòng 46:
Tinh thể Canxit có dạng hình hộp thoi ba phương, mặc dù tinh thể can xít hình hộp thoi rất hiếm gặp trong tự nhiên. Tuy nhiên, chúng thể hiện tính chất đa dạng từ hình hộp thoi nhọn đến tù, dạng phẳng, lặng trụ, hoặc hình tam giác lệch. Can xít thể hiện một vài dạng song tinh bổ sung vào sự đa dạng về các dạng quan sát được. Nó có thể tồn tại ở thể sợi, hình hột, lá mỏng, hoặc khối đặc. Cát khai thường ở 3 hướng song song với dạng hình hộp thoi. Vết vỡ vỏ sò, nhưng khó để thu được. Độ cứng trên thang Mohs là 3, tỷ khối riêng là 2.71, ánh thủy tinh ở dạng tinh thể. Màu trắng hoặc không màu, mặc dù bóng có màu xám, đỏ, vàng, xanh, xanh lá, tím,, nâu, thậm chí cả đen khi khoáng vật có lẫn tạp chất.
 
Can xítCanxit trong mờ đến trong suốt và có thể phát quang hoặc phát lân tinh.
 
Tinh thể canCanxit xít đơngđơn thể hiện tính chất quang học [[khúc xạ képđúp]]. Hiện tượng này khiến cho các vật nhìn xuyên qua một miếng can xít trong sẽ khúc xạ kép. Hiện tượng này lần đầu tiên được mô tả bởi nhà khoa học Đan Mạch Rasmus Bartholin năm 1669. Ở bước sóng ~590 nm can xít có hệ số khúc xạ thường và bất thường là 1.658 và 1.486.<ref>{{cite web|url=http://hypertextbook.com/physics/waves/refraction/|title=Refraction|last=Elert|first=Glenn|work=The Physics Hypertextbook}}</ref> Giữa 190 và 1700 nm, hệ số khúc xạ thường biến thiên giữa 1.6 và 1.3, hệ số khúc xạ bất thường biến thiên giữa 1.9 và 1.5. <ref>{{cite journal |author = Thompson, D.W. et al.|year=1998 |title=Determination of optical anisotropy in calcite from ultraviolet to mid-infrared by generalized ellipsometry|journal= Thin Solid Films|volume=313-314 |issue= |pages=341–346|doi=10.1016/S0040-6090(97)00843-2}}</ref>
 
Can xítCanxit, giống như phần lớn các muối carbonat, sẽ bị hòa tan trong phần lớn cá loại axit. Can xítCanxit có thể bị hòa tan bởi nước ngầm hoặc lắng đọng bởi nước ngầm, phụ thuộc vào một vài nhân tố trong đó có nhiệt độ nước, độ pH, và nồng độ ion hòa tan. Mặc dù can xít khá khó tan trong nước lạnh, axit có thể làm can xít tan và giải phóng khí carbon dioxit. Can xít thể hiện đặc tính bất thường, nó trở nên ít tan hơn trong nước khi nhiệt độ tăng. Khi điều kiện phù hợp để kết tủa, can xít tạo thành lớp phủ khoáng vật mà hàn gắn các hạt đá lại hoặc có thể lấp đầy các vết nứt. Khi điều kiện phù hợp để bị hòa tan, sự rửa trôi can xít có thể tăng đột ngột tính thấm, tính rỗng của đá, và nếu nó kéo dài trong một thời gian dài có thể tạo thành các hang lớn, đáng chú ý là hang Snowy River Caver ở Lincoln County, New Mexico.
 
==Trạng thái tồn tại tự nhiên==
 
Tinh thể can xítcanxit đơn lớn nhất được ghi nhất có nguồn gốc từ Iceland, kích thước 7×7×2 m và 6×6×3 m , nặng khoảng 250 tấn.<ref>{{cite journal| url = http://www.minsocam.org/ammin/AM66/AM66_885.pdf| journal = American Mineralogist| volume = 66| pages = 885–907| year= 1981| title= The largest crystals| author = P. C. Rickwood}}</ref><ref>{{cite web|url = http://giantcrystals.strahlen.org/europe/helgustadir.htm|title =The giant crystal project site| accessdate = 2009-06-06}}</ref>
 
Can xítCanxit là thành phần phổ biến trong đá trầm tích, như đá vôi, phần lớn được tạo thành từ vỏ của các loài sinh vật biển đã chết. Xấp xỉ 10% đá trầm tích là đá vôi. Can xítCanxit là khoáng vật chính trong đá hoa biến chất. Nó cũng xuất hiện ở các mạch khoáng trong mỏ ở các suối nước nóng, và nó thường tồn tại trong hang đá như là thạch nhũ và măng đá.
 
Can xítCanxit cũng có thể được thấy ở trong đá núi lửa, đá xuất xứ từ manti như [[carbonatites]], [[kimberlites]], hoặcít hiếmthấy thấy ở [[peridotites]]. Lublinite là dạng sợi, dạng hoa của can xítCanxit. <ref>[http://www.mindat.org/min-9512.html Lublinite at Mindat]</ref>
 
Can xítCanxit thường là thành phần chính của vỏ các loài sinh vật biển, như sinh vật phù du (như là gai vôi và trùng có lỗ, phần cứng của tảo đỏ,...). Can xítCanxit được tìm thấy đặc biệt ở Snowy River Cave ở New Mexico như đã nhắc ở trên, nơi các vi sinh vật gắn bó với hìnhmôi tháitrường tự nhiên. [[Trilobites]], một loài đã tiện chủng, có cặp mắt đặc biệt. Chúng sử dụng tinh thể can xítCanxit trong suốt để hình thành thấu kính cho mắt của chúng.
 
===Can xítCanxit trong lịch sử Trái Đất===
Can xít ởCanxit biển xuất hiện trong lịch sử Trái Đất khi mà sự kết tủa vô cơ của canxi carbonat trong nước biển có hàm lượng magie thấp, ngược lại với aragonite và các khoáng vật kết tủa hàm lượng magie cao ngày nay. Can xít ởCanxit biển thay thế cho aragonite biển ở [[kỉ Phanerozoic]], nổi bật nhất ở [[kỉ Ordovician]] [[kỉ Jurassic]].
==Gallery==
<gallery>
Dòng 80:
*[[Danh sách khoáng vật]]
*[[Lysocline]]
*[[Tinh thể khúc xạ đúp]]