Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chùa Tây An”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Image:Chùa Tây An núi Sam.jpg|nhỏ|phải|250px|Chùa Tây An núi Sam]]
'''Chùa Tây An''' còn được gọi '''Chùa Tây An núi Sam''' hay '''Tây An cổ tự''', là một ngôi [[chùa]] phật[[Phật giáo]] tọa lạc tại ngã ba, cận kề chân núi [[núi Sam]] (cao 284m284[[m]] so với mặt nước [[biển]]), thuộc xã [[Vĩnh Tế, Châu Đốc|Vĩnh Tế]], [[thị xã Châu Đốc]], tỉnh [[An Giang]], cách trung tâm thị xã Châu Đốc 5 [[km]].
 
Chùa Tây An không chỉ là một danh lam để người tin tưởng đến lễ bái, mà còn là một thắng cảnh du lịch nổi tiếng.
 
==Lịch sử==
Tương truyền, vào năm [[1820]] dưới triều [[Minh Mạng]], tổng đốc Nguyễn Nhật An đã cho dựng tạm một am thờ bằng tre lá nơi chân [[núi Sam]], mà bây giờ chùa Tây An tọa lạc.
 
Đến năm [[1847]] tổng đốc An-Hà ([[An Giang]] và [[Hà Tiên]]) kiêm Thượng thư bộ Binh - An tây mưu lược tướng Tuy Tĩnh Tử [[Doãn Uẩn]] ([[1795]]-[[1850]]), vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân [[Xiêm La]], bình định được [[Chân Lạp]], nên đã cho xây dựng lại bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói. Đến năm [[1861]], [[hòa thượng]] Nhất Thừa cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đến năm [[1958]], hòa thượng Nguyễn Thế Mật (1893 - 1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Tương truyền, vào năm [[1820]] dưới triều [[Minh Mạng]], tổng đốc Nguyễn Nhật An đã cho dựng tạm một am thờ bằng tre lá nơi chân núi Sam, mà bây giờ chùa Tây An tọa lạc.
 
Đến năm 1847 tổng đốc An-Hà ([[An Giang]] và [[Hà Tiên]]) kiêm Thượng thư bộ Binh - An tây mưu lược tướng Tuy Tĩnh Tử [[Doãn Uẩn]] ([[1795]]-[[1850]]), vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân [[Xiêm]], bình định được [[Chân Lạp]], nên đã cho xây dựng lại bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói. Đến năm 1861, hòa thượng Nhất Thừa cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đến năm 1958, hòa thượng Nguyễn Thế Mật (1893 - 1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Và vị sư trụ trì đầu tiên là hòa thượng Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái [[Lâm Tế]], nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế <ref> Phái Lâm Tế: một trong năm dòng phái chánh: ''Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn''. Tất cả đều phát xuất từ [[Trung HoaQuốc]] .</ref>
 
Cũng trong khoảng thời gian này ông [[Đoàn Minh Huyên]] (1807-1856), người sáng lập ra giáo phái [[Bửu Sơn Kỳ Hương]] đến tu, nên chùa càng nổi tiếng.
 
Sách [[Đại Nam nhất thống chí]] viết về chùa Tây An như sau:
:''Chùa ở địa phận thôn [[Vĩnh Tế, Châu Đốc|Vĩnh Tế]], huyện [[Tây Xuyên]], nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm [[Thiệu Trị]] thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy''.<ref>TheoDẫn lại theo Nguyễn Hiền Đức, ''Lịch sử Phật giáo [[Đàng trong]]'',. NXB TP. HCM[[Hồ Chí Minh]], 1995, tr.380.</ref>:.
 
==Kiến trúc==
Chùa Tây An cất theo lối chữ “tam” (三),mang phong cách [[nghệ thuật Ấn Độ]] và [[nghệ thuật Hồi giáo]], kết hợp với kiến trúc chùa cổ của dân tộc Việt.
 
Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như [[gạch]] [[ngói]], [[xi măng]]. Nơi cổng tam quan là tượng [[Quan Âm Thị Kính]], bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 [[m]].
 
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng [[Phật]] đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở [[Ấn Độ]]. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con [[voi]]: bạch tượng và hắc tượng.
 
Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng ''tứ linh'' (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm [[Tự Đức]] thứ 32 (1879).
 
Trong chính điện có khoảng 150<ref> Theo Nguyễn Hữu Hiệp,''Tây An Cổ Tự ở Núi Sam'', (Nam Bộ đất và người, Viện Khoa học Lịch sử TP. HCM, NXB Trẻ, 2005, tr. 426-427-428).</ref> pho tượng lớn nhỏ: tượng [[Phật]], [[Bồ tát]], [[La hán]], [[Bát bộ kim cang]], [[Ngọc hoàng]], Huỳnh đế, Thần nông v.v. ..Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc [[Việt Nam]] vào [[thế kỷ 19]]. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.
 
Chùa Tây An đã được Bộ Văn Hóa xếp hạng là ''di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia'' theo quyết định số: 92/VH.QĐ ngày 10 tháng 07 năm 1980.
 
==Trùng tên==
Thời gian Đoàn Minh Huyên bị buộc đến tu ở chùa Tây An, nhưng lòng ông vẫn luyến nhớ trại ruộng đơn sơ ở cốc ông Đạo Kiến trên cù lao Ông Chưởng (xưa thuộc xã Long Kiến, nay thuộc xã Long Giang, huyện [[Chợ Mới]], tỉnh [[An Giang]]). Đấy là nơi khi xưa ông phát phù trị bệnh cho hằng ngàn bệnh nhân bị nạn dịch tả bạo hành, nên vẫn thường lui tới viếng thăm.
 
Đến khi người dân tự nguyện xây dựng một nơi thờ phương Tam Bảo ở chốn này, ông Đoàn Minh Huyên đặt tên cho ngôi chùa ấy là ''Tây An cổ tự''. (xưaSau thuộcnày, chùa LongTây Kiến,An nay thuộcnúi Sam Longcũng Giang,trở huyệnthành Chợ''cổ Mới,tự'' tỉnh(vì Anđã Giangtrên 150 năm), nên mới xảy ra việc trùng tên chùa.
 
Và sau này ngôi chùa Tây An ở núi Sam đã có trên 150 tuổi, tấm biển tên chùa "Tây An tự" ở cổng được chỉnh sửa lại là "Tây An cổ tự", nên mới xảy ra việc trùng tên chùa.
 
==Ảnh==
<gallery>
Hình:Phật chùa Tây An.jpg|Nơi thờ Phật trongTrong chánh điện.
Hình:Chánh điện chùa Tây An.jpg|Tượng trong chánh điện.
Hình:Ohatthay.jpg|Cổng dẫn vào mộ Đoàn Minh Huyên, phía sau chùa.
Hình:Tây An cổ tự Chợ Mới.jpg|Tây An cổ tự, (Chợ Mới, An Giang).
</gallery>
 
==Chú thích==
{{reflist}}
<references/>
 
==Tham khảo==
*[http://sodulich.angiang.gov.vn/index.aspx?action=chitietkddl&ID=29 Du lịch An Giang]