Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lương Đắc Bằng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: . → ., , → ,, ==Tài liệu tham khảo== → ==Tham khảo== using AWB
n clean up, replaced: → (4) using AWB
Dòng 11:
Năm 1504, vua Hiến Tông chết, người con thứ lên làm vua, tức vua [[Lê Túc Tông]], Lê Túc Tông chết sớm, người anh lên thay tức vua [[Lê Uy Mục]]. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: ''Vua nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy.'' Năm 1509, vua Uy Mục đuổi những người tôn thất, công thần về Thanh Hóa, đại thần [[Nguyễn Văn Lang]] có trong số đó, ông đem quân ba phủ nổi quân ở Thanh Hóa, đón Giản tu công Lê Dinh làm minh chủ. Lê Đắc Bằng tham gia trong đó, Nguyễn Văn Lang bèn sai Lê Đắc Bằng soạn hịch kể tội vua Uy Mục.<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1998, trang 48</ref>
 
Nguyễn Văn Lang phát binh ra Thăng Long, vua Uy Mục thua trận, phải uống thuốc độc tự tự, năm ấy Lê Dinh lên ngôi, tức vua [[Lê Tương Dực]]. Sau khi lên ngôi vua sai đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Ngạc, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản đi sứ sang nhà Minh. Vua dời thi hài mẹ mình về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên, dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu. Sai Lương Đắc Bằng lúc ấy làm Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự soạn bi ký.<ref name="Nội 1998">Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1998, trang 51</ref>
 
Năm 1510, vua Tương Dực phong thưởng cho các công thần, Lương Đắc Bằng được thăng làm Lại bộ Tả thị lang. Năm ấy vua khởi phục Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diên<ref>tòa kinh diên là nơi dạy vua và thái tử</ref> nhưng Đắc Bằng cố từ chối không nhận. Nhân đó, Đức Bằng dâng lên 14 kế sách trị bình:<ref name="ReferenceA"/><ref name="Nội 1998"/>
Dòng 37:
Sách Nam Hải dị nhân chép học trò ông nổi tiếng có [[Nguyễn Bỉnh Khiêm]] sinh năm Tân Hợi (1491), người tỉnh [[Hải Dương]]. Nhận thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt và thích lý số, nên ông truyền dạy và trao cho toàn bộ ''Thái Ất thần kinh''. Sau này Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ [[trạng nguyên]], làm quan đến chức Lại bộ Thượng thư [[nhà Mạc]], tước Trình Quốc Công, người đời thường gọi là Trạng Trình, ông có truyền lại cuốn "sấm Trạng Trình" tiên đoán việc đời sau.
 
Nam Hải dị nhân không phải là sách chính sử, chỉ là các chuyện đồn thổi, truyền thuyết trong dân gian được Phan Kế Bính biên tập lại. Các sách chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, sách Lịch triều hiến chương loại chí đều không viết Nguyễn Bỉnh Khiêm có theo học Lương Đắc Bằng hay không và cũng không nói gì về việc Lương Đắc Bằng tinh thông lý số. Một số nhà soạn sử ở Việt Nam hiện nay đã dùng tư liệu này để viết bài chính sử.<ref name="ReferenceB"/>
 
==Nhận định==
 
Khi soạn sách Lịch triều hiến chương loại chí, phần Nhân vật chí, Phan Huy Chú đã chép người phò tá có công đức các đời, gồm 4 người đời Lý, 10 người đời Trần, 18 người đời Lê và 1 người đời Mạc, trong đó có Lương Đắc Bằng và con ông là Lương Hữu Khánh.
 
==Xem thêm==