Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kanak”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 30:
Người Melanesia định cư trên đảo chính của Nouvelle-Calédonie ít nhất là từ thời văn hoá Lapita.<ref name="Sand1998">{{cite journal|last=Sand|first=Christophe |author2=Karen Coote |author3=Jacques Bole |author4=Andre Ouetcho |date=April 1998|title=A Pottery Pit at Locality WKO013A, Lapita (New Caledonia) |journal=Archaeology in Oceania |publisher=|volume=33|issue=1|page=37|jstor=40387091}}</ref> Tuy nhiên, chưa rõ về nguồn gốc của người Kanak. Người ta phát hiện được [[đá vỏ chai]] được chuyển đến từ [[New Guinea]] cùng với đồ gốm Lapita Nouvelle-Calédonie có niên đại sớm nhất. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng có bằng chứng về việc con người định cư tại Nouvelle-Calédonie có niên đại từ 3000 TCN (trước văn hóa Lapita đến 1500 năm), trong khi những người khác tuyên bố đã phát hiện được đồ gốm tiền Lapita.<ref name="West2009" /> Tại Hội nghị Lapita lần thứ 4 vào năm 2000, vấn đề được đặt ra: "Lapita Kanak, hoặc Lapita là tổ tiên cổ nhất và trước tiên của một nền văn hoá sau này được đặt tên là Kanak?"<ref name="ClarkAnderson2001">{{cite book|last1=Clark|first1=Geoffrey R.|last2=Anderson|first2=Atholl|last3=Vunidilo|first3=Tarisi|title=The archaeology of Lapita dispersal in Oceania: papers from the Fourth Lapita Conference, June 2000, Canberra, Australia|url=https://books.google.com/books?id=tfRyAAAAMAAJ|accessdate=11 June 2011|year=2001|publisher=Pandanus Books|isbn=978-1-74076-010-2|page=89}}</ref> Vẫn còn vấn đề khác trong xác định nguồn gốc và lịch sử sơ khởi của người Kanak đó là giải thích theo khảo cổ học có mâu thuẫn với quan điểm của người Kanak và quan điểm này bị chính trị hoá sau thời thực dân.<ref name="Meskell2009">{{cite book|last=Meskell|first=Lynn|title=Cosmopolitan archaeologies|url=https://books.google.com/books?id=zPBZLXxPVlwC&pg=PA61|accessdate=11 June 2011|date=January 2009|publisher=Duke University Press|isbn=978-0-8223-4444-5|pages=61–}}</ref>
 
Lịch sử sớm nhất của người châu Âu tại lãnh thổ là khi Thuyền trưởng [[James Cook]] của Anh đổ bộ lên các đảo này vào năm 1775, tại thời điểm đó có tường thuật rằng 70.000 người Kanak sống trên quần đảo. James Cook đặt tên "New Caledonia" cho các đảo theo tên gọi quê hương Scotland của ông trong tiếng La Tinh là [[Caledonia]].<ref name=We/><ref name=Island/> 5 năm sau, những người Tin Lành của Hội truyền giáo Luân Đôn đến Nouvelle-Calédonie, tiếp bước họ đến đảo là những người Công giáo Pháp vào năm 1843. Điều này dẫn đến một xung đột giữa hai phái tồntôn giáo và cuối cùng là người Pháp chiếm ưu thế kiểm soát các đảo. Quần đảo sau đó bị Pháp thôn tính vào năm 1853.<ref name= Kanaky>{{cite web|url=http://www.cwo.com/~lucumi/kanaky.html|title= The Global African Community: History Notes|work=Kanaky (New Caledonia)|accessdate=30 May 2011|publisher= cwo.com}}</ref><ref name="Dodge1976">{{cite book|last=Dodge|first=Ernest Stanley|title=Islands and Empires: Western Impact on the Pacific and East Asia|url=https://books.google.com/books?id=RE5vls1XeEgC&pg=RA1-PA170|accessdate=10 April 2012|year=1976|publisher=U of Minnesota Press|isbn=978-0-8166-0788-4|page=1}}</ref> Trong thời thực dân thế kỷ 19, người Kanak được tuyển mộ hoặc bị bắt làm nô lệ để làm lao động phi tự do tại những nơi như Úc, California, Canada, Chile và Fiji. Trong vòng 3.000 năm, người Kanak sống tại các đảo hẻo lánh, họ không sẵn sàng trước các virut và vi khuẩn đến từ châu Âu.<ref name="Bullard2000">{{cite book|last=Bullard|first=Alice|title=Exile to paradise: savagery and civilization in Paris and the South Pacific, 1790–1900|url=https://books.google.com/books?id=LV7jQZfYOicC&pg=PA169|accessdate=5 June 2011|year=2000|publisher=Stanford University Press|isbn=978-0-8047-3878-1|pages=169–}}</ref> Người Kanak bị đẩy khỏi đất đai của mình và được thuê làm lao động ép buộc trên các đồn điền, trại chăn nuôi và công trình công cộng của người Pháp.<ref name="LeFevre2008">{{cite book|last=LeFevre|first=Tate|title="Tourism and Indigenous Curation of Culture in Lifou, New Caledonia"· In The Future of Indigenous Museums: Perspectives from the Southwest Pacific, Nick Stanley, ed·|url=https://books.google.com/books?id=L2ocrA0MvX8C&pg=PA80|accessdate=10 July 2011|date=1 October 2008|publisher=Berghahn Books|isbn=978-1-84545-596-5|page=80}}</ref>
 
[[File:Two Kanak (Canaque) warriors holding weapons, New Caledonia.jpg|left|upright|thumb|Chiến binh Kanak, {{circa|1880}}]]
Khi người Kanak bị buộc phải chuyển đến các khu vực dành riêng cho họ trên đảo, nằm sát các dãy núi, họ chỉ còn chiếm giữ 10% diện tích lãnh thổ của tổ tiên trong khi đó dân số của họ giảm rất đột ngột do bệnh tật, và điều kiện sinh hoạt trở nên rất khắc nghiệt.<ref name="USAPublications2009">{{cite book|author1=IBP USA|author2=USA (COR) International Business Publications|title=New Caledonia Country Study Guide|url=https://books.google.com/books?id=XexxZZHA2lIC&pg=PA137|accessdate=20 June 2011|date=20 March 2009|publisher=Int'l Business Publications|isbn=978-1-4387-3297-8|pages=137–}}</ref> Tình hình này dẫn đến việc chính phủ Pháp sau đó cho đưa 20.000 phạm nhân đến đảo từ năm 1864 đến năm 1897, hầu hết số người này định cư vĩnh viễn tại lãnh thổ, và họ được dùng đến để khai thác [[nickenniken]] (từ năm 1864) và [[đồng]] từ năm 1875. Điều này khiến người Kanak hết sức oán giận, họ tiến hành khởi nghĩa vào năm 1878 chống thực dân Pháp, song bị đàn áp trước quân Pháp được vũ trang tốt hơn.<ref name= Kanaky/> Thủ lĩnh Kanak bị chặt đầu, và thủ cấp của ông được trưng trong [[Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Pháp|Bảo tàng Lịch sử tự nhiên]] tại Paris.<ref name="Bullard, p. 156"/>
 
===Sau Thế chiến 2===
Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], phong trào độc lập Kanak lại có được động lực khi Liên Hiệp Quốc đưa Nouvelle-Calédonie vào danh sách phi thực dân hoá các lãnh thổ phi tự quản vào năm 1946. Một bước phát triển lớn diễn ra khi người Kanak và người định cư gốc Pháp tại lãnh thổ giành được quyền bỏ phiếu vào năm 1951, và Nouvelle-Calédonie trở thành một lãnh thổ hải ngoại của Pháp vào năm 1956. Người Kanak sau đó cũng được cho phép dờirời khỏi các khu vực dành riêng cho họ. Tiếp đến là thiết lập Hội đồng Lãnh thổ vào năm 1957, song thể chế này chỉ tồn tại ngắn ngủi; [[Charles de Gaulle]] bãi bỏ nó sau khi ông trở thành tổng thống vào năm 1958.<ref name= Kanaky/><ref name=Report>{{cite web|url=http://archives.pireport.org/archive/2005/October/10-27-com.htm|title= Pacific Islands Report: New Caledonia Still A Colony Despite Accord|work= Pacific Islands Development Program/East-West Center. With Support From Center for Pacific Islands Studies/University of Hawai‘i|accessdate=2 June 2011|publisher= archives.pireport.org}}</ref>
 
Năm 1981, phong trào độc lập bắt đầu, sau vụ ám sát tổng bí thư của Liên hiệp Calédonie là Pierre Declercq vào ngày 19 tháng 9 năm 1981. Một diễn đàn dân tộc mang tên "Mặt trận Giải phóng Dân tộc Kanak và Xã hội chủ nghĩa" (FLNKS)]] được lập ra vào năm 1984. Diễn đàn này từ chối tham gia vào Hội đồng Lãnh thổ và thậm chí tuyên bố chính phủ cấp tỉnh của họ; điều này bị người Pháp phản đối.<ref name= Kanaky/> FLNKS "tổ chức tẩy chay các cuộc bầu cử cấp lãnh thổ tại Nouvelle-Calédonie, phá hòm phiếu và lập rào chắn ngăn người dân bỏ phiếu."<ref name="LeFevre2008"/> FLNKS kiên định sự kích động của họ và đơn phương tuyên bố vào ngày 7 tháng 1 năm 1985 rằng một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập sẽ được tiến hành vào tháng 7 năm 1985. Sau cái chết của thủ lĩnh người Kanak là Eloi Machoro vào năm 1985, các nhà hoạt động Kanak tiến hành bắt cóc 27 hiến binh trên đảo [[Ouvéa]], khiến người Pháp hành động.<ref name="AdamAnwar2005">{{cite book|last1=Adam |first1=Asvi Warman|last2=Anwar|first2=Dewi Fortuna|last3=Indonesia|first3=Yayasan Obor|title=Violent internal conflicts in Asia Pacific: histories, political economies, and policies|url=https://books.google.com/books?id=yGDsxghgftQC&pg=PA129|accessdate=10 July 2011|year=2005|publisher=Yayasan Obor Indonesia|isbn=978-979-461-514-0|page=129}}</ref>
 
Phong trào Kanak đề xuất tự quản vào tháng 1 năm 1986. Tổng thống Mitterrand tuyên bố một hoả giải tạm thời, theo đó chuyển nhiều quyền tự trị hơn cho lãnh thổ. Tuy nhiên, Thủ tướng Pháp [[Jacques Chirac]] cho đóng quân trên quần đảo và vấn đề tự trị bị hoãn lại.<ref name= Kanaky/> Vận động tổ chức trưng cầu dân ý của FLNKS được một số tổ chức khu vực ủng hộ như "Nhóm Xung kích Melanesia", [[Diễn đàn Quần đảo Thái Bình Dương|Diễn đàn Thái Bình Dương]], và [[Phong trào không liên kết]], đạt được thành công với Nghị quyết 41-41 A của Liên Hiệp Quốc vào ngày 2 tháng 12 năm 1986; theo đó đưa lại Nouvelle-Calédonie vào danh sách phi thực dân hoá các lãnh thổ phi tự quản.<ref name=Report/> Tuy nhiên, nghị quyết này không làm dịu bớt bạo lực vì sau đó còn diễn ra chạm trán mạnh hơn với nhà cầm quyền: vụ bắt cóc con tin trên đảo Ouvéa vào năm 1988 làm 21 chết trong đó có 19 người Kanak.<ref name="Stanley2000">{{cite book|last=Stanley|first=David|title=South Pacific handbook |url=https://books.google.com/books?id=w6zguqsU7x0C&pg=PA771|accessdate=5 June 2011|date=January 2000 |publisher=David Stanley|isbn=978-1-56691-172-6|page=771}}</ref> Sau sự kiện, có phản ứng của quốc tế dẫn đến khởi động các đối thoại nhằm dàn xếp giữa chính phủ Pháp, người Kanak và người định cư gốc Pháp.<ref name= Kanaky/>
2011|publisher=Pacific Conference of Churches|date=1 April 2011}}</ref>
 
Hiệp ước Matignon đạt được vào ngày 6 tháng 11 năm 1988 giữa người Pháp và người Kanak.<ref name="Limited2000">{{cite book|author=Europa Publications Limited|title=The Europa world year book|url=https://books.google.com/books?id=qw4XAQAAMAAJ|accessdate=5 June 2011|year=2000|publisher=Europa Publications Limited|page=1519}}</ref> Theo hiệp ước này, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được đề xuất tổ chức vào năm 1998. Tuy nhiên, hai thủ lĩnh Kanak ký vào hiệp ước là Jean-Marie Tjibaou và Yeiwene Yeiwene đã bị một nhà hoạt động Kanak ám sát vào ngày 4 tháng 5 năm 1989.<ref name="WaddellStudies206">{{cite book|last=Waddell|first=Eric|title=Jean-Marie Tjibaou, Kanak witness to the world: an intellectual biography|url=https://books.google.com/books?id=IEfhCaEbTM4C&pg=PT206|accessdate=5 June 2011|year=2009|publisher=University of Hawaii Press|isbn=978-0-8248-3314-5|page=206}}</ref><ref name="Pacific islands monthly: PIM.">{{cite book|title=Pacific islands monthly: PIM.|url=https://books.google.com/books?id=T5d0AAAAMAAJ|accessdate=5 June 2011|year=1999|publisher=Pacific Publications}}</ref> Các nhà hoạt động độc lập Kanak không hài lòng trước tình thế mà họ cảm thấy rằng Pháp sẽ không bao giờ cho phép Nouvelle-Calédonie độc lập.
 
Một hiệp định tiếp theo mang tên "Hiệp định Nouméa", được kỳ kết giữa chủ tịch của FLNKS và chính phủ Pháp vào ngày 5 tháng 5 năm 1998,<ref name="AnglevielLevine2009">{{cite book|last1=Angleviel|first1=Frédéric|last2=Levine|first2=Stephen|title=New Zealand-New Caledonia: Neighbours, Friends, Partners: La Nouvelle-Zelande Et la Nouvelle-Caledonie: Voisins, Amis Et Partenaires|url=https://books.google.com/books?id=Zep4oGGdWdUC&pg=PA67|accessdate=5 June 2011|date=1 April 2009|publisher=Victoria University Press|isbn=978-0-86473-582-9|page=67}}</ref> theo đó cho phép Nouvelle-Calédonie có tự trị nhất định trong một giai đoạn chuyển giao là 20 năm. Một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập khỏi Pháp sẽ được tổ chức trong khoảng 2014 và 2019. Các thay đổi cấp tiến được dự kiến của hiệp định này là kiểm soát và cấu trúc chính trị địa phương; người Kanak sẽ có tiếng nói lớn hơn về các vấn đề nội địa và khu vực còn Pháp duy trì các quyền chủ yếuquyền như kiểm soát quân sự và ngoại giao.<ref name= Kanaky/><ref name=Report/> Trong một phát biểutrướcbiểu trước Liên Hiệp Quốc vào ngày 10 tháng 10 năm 2005, phó chủ tịch của FLNKS là Léopold Jorédié thúc giục Liên Hiệp Quốc thành lập một hệ thống kiểm tra và theo dõi hiệp ước đã ký.<ref name=Report/>
 
==Nhân khẩu==
Hàng 61 ⟶ 60:
 
===Tín ngưỡng===
Người Kanak có tục lệ cúng bái tổ tiên, được thể hiện bằng mộ cổ, các phiến đá thiêng và các nền lò cầu nguyện nơi họ tiến hành cúng tế.<ref>Bullard, p. 55</ref> Ngày nay, hầu hết người Kanak là tín đồ Cơ Đốc giáo. Tôn giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt của người Kanak. Người Kanak tham gia Giáo hội Công giáo tại Nouméa, và họ chiếm gần 50% số tín đồ Công giáo tại lãnh thổ, chỉ sau người gốc Âu. Ngoài ra, đa số tín đồ Tin Lành trong lãnh thổ là người Kanaks.<ref name="LoganCole2001, pp.45–46"/> Tuy nhiên, vẫn còn số ít người theo các đức tin truyền thống.
[[File:Indigenes de nouvelle caledonie 1880.png|thumb|left|upright|Người Kanak, {{circa|1880}}]]
Người Kanak có tục lệ cúng bái tổ tiên, được thể hiện bằng mộ cổ, các phiến đá thiêng và các nền lò cầu nguyện nơi họ tiến hành cúng tế.<ref>Bullard, p. 55</ref> Ngày nay, hầu hết người Kanak là tín đồ Cơ Đốc giáo. Tôn giáo là một yếu tố quan trọng trong sinh hoạt của người Kanak Người Kanak tham gia Giáo hội Công giáo tại Nouméa, và họ chiếm gần 50% số tín đồ Công giáo tại lãnh thổ, chỉ sau người gốc Âu. Ngoài ra, đa số tín đồ Tin Lành trong lãnh thổ là người Kanaks.<ref name="LoganCole2001, pp.45–46"/> Tuy nhiên, vẫn còn số ít người theo các đức tin truyền thống.
 
Theo các đức tin truyền thống của người Kanak, biển là thứ thiêng liêng vì nó cung cấp cho họ cá để làm thức ăn,<ref name=Fol>{{cite web|url=http://www.conservation.org/FMG/Articles/Pages/kanak_traditions_future_conservation.aspx|title=Kanak Traditions Guide Future Conservation|accessdate=3 June 2011|publisher=Conservation.org}}</ref> do đó họ đối đãi với biển với lòng sùng kính nhất. Các truyện kể dân gian của người Kanak không chỉ chứcchứng thực thực tế này mà còn được tuân theo nghiêm khắc với tư cách là luật bất thành văn. Một số khía cạnh quan trọng của luật truyền khẩu liên quan đến bảo vệ và bảo tồn môi trường, như kết thúc hoạt động đánh bắt khi lượng cá suy giảm, và quyền đánh cá tại các khu vực nhất định được người địa phương tuân thủ nghiêm ngặt với sự tôn trọng.<ref name=Fol/>
 
==Văn hoá==
[[File:Femme kanak.jpg|thumb|upright|Một phụ nữ Kanak cùng [[bougna]], một món gồm quả và cá được nướng ngầm dưới đất.]]
Bougna là một món ăn truyền thống của người Kanak, được nhiều người cho là món ăn dân tộc.<ref name="West2009">{{cite book|last=West|first=Barbara A.|title=Encyclopedia of the Peoples of Asia and Oceania|url=https://books.google.com/books?id=pCiNqFj3MQsC&pg=PA360|accessdate=8 June 2011|year=2009|publisher=Infobase Publishing|isbn=978-0-8160-7109-8|pages=360–}}</ref> Nó được làm từ rau củ thái lát như [[khoai môn]], [[sắn]], [[khoai lang]] và sữa dừa.<ref name="Haden2009"/> Thịt lợn, thịt gà hoặc hải sản có thể được sử dụng, sau đó nguyên liệu được bọc trong lá chuối và được nấu bằng đá nóng trong lò ngầm dưới đất.<ref name="Stanley2004">{{cite book|last=Stanley|first=David|title=Moon Handbooks South Pacific|url=https://books.google.com/books?id=EDGapfBX-CAC&pg=PA824|accessdate=5 June 2011|date=15 November 2004|publisher=David Stanley|isbn=978-1-56691-411-6|pages=824–}}</ref> Các nguyên liệu địa phương khác được sử dụng trong ẩm thực Kanak gồm ''[[Rousettus]]'' (dơi) và hươihươu địa phương; hải sản như cá tại phá và rặng san hô (gồm [[Naso unicornis|dawa]]), cùng với tôm cua. Đậu pata là [[Phaseolus vulgaris|đậu cô ve]] trồng tại địa phương, còn [[na]], [[chanh]] và [[saffron|bột nghệ tây]] là các nguyên liệu địa phương khác.<ref name="Haden2009">{{cite book|last=Haden|first=Roger|title=Food Culture in the Pacific Islands|url=https://books.google.com/books?id=6eZe7e-1Y3sC&pg=PA138|accessdate=5 June 2011|date=30 August 2009|publisher=ABC-CLIO|isbn=978-0-313-34492-3|pages=138–}}</ref>
 
Nghệ thuật Kanak trở nên phổ biến hơn kể từ thập niên 1990 với các nỗ lực của Cơ quan Phát triển Văn hoá Kanak ADCK.<ref name="LoganCole2001, pp.48–55">"LoganCole2001, pp.48–55"</ref> Các đồ gốm Lapita có niên đại từ 1500 TCN, về cơ bản đây là nghề thủ công của nữ giới và nó thường được trang trí bằng các kiểu mẫu hình học và mặt người cách điệu, song có khác biệt giữa đồ gốm miền bắc và miền nam. Nhiều cán và nước men có thiết kế rãnh được làm từ lược răng. Đồ gốm được làm từ đất sét trên các đảo.<ref>"LoganCole2001, pp.50-51"</ref> Hội hoạ là một dạng mỹ thuật gần đây và phổ biến trong các nữ nghệ sĩ. Các nghệ sĩ nổi tiếng như Yvette Bouquet từ Koumac tạo ra các bức tranh về đề tài Thái Bình Dương và châu Đại Dương, Paula Boi có các bức tranh với phong cảnh trừu tượng hơn, còn Denise Tuvouane và Maryline Thydjepache sử dụng các dạng nghệ thuật hỗn hợp. Các nhà chờ xe buýt là nơi phổ biến để minh hoạ các bức tranh của họ.<ref>"LoganCole2001, p.51"</ref>
Hàng 80 ⟶ 78:
Tapa là một loại vải vỏ cây làm thành các miếng nhỏ, thường là từ cây đa được sử dụng để bọc tiền hạt cổ Kanak.<ref name="LoganCole2001, p.54">"LoganCole2001, p.54"</ref> Người Kanak làm xuồng từ các thân cây bị đục rỗng và rầm chìa tàu đôi lớn với buồm tam giác, gọi là ''pirogues'', theo truyền thống được dùng để đánh cá.<ref name="LoganCole2001, p.54"/>
 
Các điệu nhảy được trình diễn trong các cuộc tập hợp truyền thống của người Kanak nhằm mục đích củng cố quan hệ trong thị tộc và với tổ tiên. Nhảy múa được tiến hành dưới dạng một thông điệp hoặc một lời ghi chú, thường liên quan đến các hoạt động hàng ngày của họ hoặc các sự kiện quan trọng như sinh sản, kết hôn, cắt bao quy đầu, tù trưởng qua đời. Các vũ công vẽ nhiều màu lên mình nhằm làm vui lòng tổ tiên xem họ.<ref name="LoganCole2001, p.48">"LoganCole2001, p.48"</ref> Mặt nạnnạ bằng gỗ được làm từ các vật liệu địa phương như vỏ cây, lông và lá trang trí chúng tượng trưng cho một liên kết vật chất với thế giới vô hình. Lễ hội Nghệ thuật Thái Bình Dương được tổ chức mỗi bốn năm. Các vũ công được huấn luyện về nhảy múa truyền thống trong các hội thảo đặc biệt. Nhảy múa chào mừng được trình diễn rất phổ biến. Trong số các hình thức nhảy múa khác nhau, ''pilou-pilou'' là một điệu nhảy độc đáo của người Kanak, thuật lại nhiều câu chuyện của các thị tộc. Kiểu nhảy ''pilou-pilou'' của người Kanak nay hầu như biết mất, tên gọi của nó được đặt bởi các nhà truyền giáo Pháp.<ref name="LoganCole2001, p.48"/><ref name="Ammann1998">{{cite book|last=Ammann|first= Raymond |author2=David Becker|title= Kanak dance and music: ceremonial and intimate performance of the Melanesians of New Caledonia, historical and actual |url= https://books.google.com/books?vid=ISBN0710305869&printsec=frontcover|accessdate=7 June 2011|year= 1997|publisher= Agence de développement de la culture kanak |isbn=0-7103-0586-9}}</ref>
 
== Tham khảo ==
Lễ hội Nghệ thuật Thái Bình Dương được tổ chức mỗi bốn năm. Các vũ công được huấn luyện về nhảy múa truyền thống trong các hội thảo đặc biệt. Nhày múa chào mừng được trình diễn rất phổ biến. Trong số các hình thức nhảy múa khác nhau, ''pilou-pilou'' là một điệu nhảy độc đáo của người Kanak, thuật lại nhiều câu chuyện của các thị tộc. Kiểu nhảy ''pilou-pilou'' của người Kanak nay hầu như biết mất, tên gọi của nó được đặt bởi các nhà truyền giáo Pháp.<ref name="LoganCole2001, p.48"/><ref name="Ammann1998">{{cite book|last=Ammann|first= Raymond |author2=David Becker|title= Kanak dance and music: ceremonial and intimate performance of the Melanesians of New Caledonia, historical and actual |url= https://books.google.com/books?vid=ISBN0710305869&printsec=frontcover|accessdate=7 June 2011|year= 1997|publisher= Agence de développement de la culture kanak |isbn=0-7103-0586-9}}</ref>
<references />
 
[[Thể loại:Người bản địa châu Đại Dương]]
[[Thể loại:Nouvelle-Calédonie]]